28 C
Hanoi
Thứ tư, Tháng mười một 20, 2024
More
    Home Blog Page 350

    Một người ăn phải ít nhất 50.000 mảnh vi nhựa mỗi năm

    Một nghiên cứu công bố trên tạp chí Công nghệ và khoa học môi trường đã chỉ ra, mỗi năm trung bình một người ăn phải ít nhất 50.000 mảnh vi nhựa (microplastic) đồng thời hít thở một số lượng tương tự.

    Tuy nhiên, con số trong thực tế gần như chắc chắn lớn hơn rất nhiều, do chỉ một số các đồ ăn và thức uống được phân tích nhựa trong nghiên cứu trên.

    Hiện những ảnh hưởng từ việc tiêu hóa vi nhựa chưa được khẳng định rõ, nhưng vi nhựa có thể làm nảy sinh những chất độc. Một số mảnh có kích thước đủ lớn để xuyên qua các mô trong cơ thể con người và gây ra những phản ứng miễn dịch.

    Ô nhiễm vi nhựa được hình thành từ các rác thải nhựa chưa bị tiêu hủy và nó đang diễn ra trên khắp toàn cầu. Hồi tháng 10/2018, lần đầu tiên vi nhựa đã được tìm thấy trong chất thải của con người . Đây là một bằng chứng cho thấy chúng ta đã tiêu hóa cả vi nhựa trong cuộc sống hàng ngày.

    Nghiên cứu mới công bố đã tổng hợp dữ liệu từ 26 nghiên cứu đã có trong đó đo lường số lượng mảnh vi nhựa trong cá, tôm cua, đường, muối, bia và nước cũng như không khí tại các thành phố lớn. Các nhà khoa học sau đó sử dụng các chỉ số hướng dẫn về chế độ ăn của chính phủ Mỹ để tính toán lượng mảnh vi nhựa mà con người ăn phải trong một năm. Trong khi một năm trung bình người lớn ăn 50.000 mảnh vi nhựa, thì trẻ em cũng ăn khoảng 40.000 mảnh.

    Nước đóng chai được cho là chứa lượng vi nhựa lớn hơn 22 lần so với nước trực tiếp từ vòi. Một người chỉ uống nước đóng chai có thể ăn tới 130.000 mảnh vi nhựa mỗi năm.

    Alastair Grant, Giáo sư Đại học East Anglia cho biết, chưa có bằng chứng về việc các mảnh vi nhựa được đề cập tới trong nghiên cứu, đem tới “bất kỳ nguy hiểm đáng kể nào tới sức khỏe con người”. Ngoài ra, theo ông, gần như chắc chắn chỉ một phần trăm nhỏ trong số mảnh vi nhựa con người hít phải, thực sự tới được phổi.

    Còn giáo sư Kieran Cox từ Đại học Victoria in Canada chia sẻ, nghiên cứu đã thay đổi thói quen hàng ngày của ông: “Tôi chắc chắn tránh xa túi nhựa và cố gắng uống nước đóng chai càng ít càng tốt”.

    Độc hại là thế, tại sao các nhà sản xuất vẫn sử dụng hạt vi nhựa?

    Câu trả lời vô cùng đơn giản với những hạt siêu nhỏ có thể thấm sâu loại bỏ bụi bẩn và chất nhờn này. Thứ nhất là vì chi phí sản xuất hạt vi nhựa rẻ, cộng thêm nguyên liệu luôn có sẵn và dễ tìm thấy.

    Hơn nữa chúng lại mềm mại cho da hơn các sản phẩm từ thiên nhiên như tinh thể muối, tinh thể đường, hoặc vỏ nghiền của các loại hạt cứng. Đó cũng là lí do hiện nay hầu hết người tiêu dùng đều chỉ chọn các sản phẩm này thay cho các sản phẩm thiên nhiên.

    Các quốc gia cùng hành động để loại bỏ hạt vi nhựa

    Đứng trước mối hiểm họa này, Mỹ và một số nước châu Âu đã yêu cầu các công ty hóa mỹ phẩm ngừng ngay việc sử dụng các loại hạt vi nhựa trong sản xuất mỹ phẩm.

    Năm 2015, Tổng thống Mỹ Barack Obama đã ký ban hành dự luật ngăn cấm việc sử dụng các hạt nhựa trong ngành công nghiệp mỹ phẩm.

    Illinois đã trở thành bang đầu tiên ban hành luật cấm sản xuất và bán các sản phẩm có chứa vi hạt nhựa. Tập đoàn Unilever đã không còn sử dụng hạt vi nhựa trong các sản phẩm từ cuối năm 2015.

    Còn Hãng mỹ phẩm L’Oreal (Pháp) cũng cam kết loại bỏ các hạt nhựa li ti này ở các sản phẩm thương hiệu của mình vào năm 2017.

    Kết quả một cuộc thăm dò ở Anh được tiến hành vào tháng 4 vừa qua cũng cho thấy có đến 2/3 người dân Anh bày tỏ mong muốn ban hành một đạo luật tương tự để ngăn cấm việc sử dụng các hạt nhựa.

    Tất nhiên, UNEP vẫn đang tiếp tục kêu gọi các quốc gia cấm sử dụng vi hạt nhựa trong các sản phẩm chăm sóc cá nhân và mỹ phẩm.

    Theo Toquoc/Trithuctre (7/6/2019)

    CO2 trong bầu khí quyển Trái Đất đạt mức cao kỷ lục

    Theo NOAA (Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ), mức độ carbon dioxide trong bầu khí quyển của Trái Đất được ghi nhận tại Đài quan sát Đường cơ sở Khí quyển Mauna Loa của NOAA đã đạt mức cao nhất theo mùa vào tháng 5 vừa qua và giữ kỷ lục trong 61 năm gần đây.

    Ông Pieter Tans, nhà khoa học cao cấp thuộc Phòng giám sát toàn cầu của NOAA cho biết: “Cần phải theo dõi lượng khí CO2 dài hạn để nắm bắt được ô nhiễm không khí thay đổi khí hậu của chúng ta nhanh như thế nào”.

    Trong những năm đầu thập kỷ này tại Mauna Loa, trên đỉnh núi lửa ở Hawaii, đã chứng kiến lượng khí CO2 tăng hàng năm khoảng 0,7 phần triệu. Trong suốt thập kỷ qua, tỷ lệ này đã tăng lên khoảng 2,2 phần triệu mỗi năm.

    Tháng 5 do nhiệt độ luôn cao hơn so với các tháng trong năm nhưng lượng phát thải khí CO2 vào khí quyển ngày càng lớn, thảm thực vật khó có thể lọc được khiến gia tăng phát thải khí nhà kính gây ra hiệu ứng nhà kính ngày càng cao.

    Lượng phát thải khí CO2 vào khí quyển ngày càng gia tăng. Ảnh: Dailymail

    Một nghiên cứu gần đây của Liên Hợp Quốc cho thấy, ngay cả khi việc giảm phát thải theo Thỏa thuận Paris (một hiệp định khí hậu toàn cầu quy tụ 174 quốc gia trên khắp thế giới) nhiệt độ thế giới vẫn sẽ tiếp tục tăng khoảng 3-5 độ C trong 30 năm. Sự gia tăng nhiệt độ sẽ khiến băng ở Bắc Cực tan nhanh hơn, mực nước biển dâng cao hơn đe dọa cuộc sống của con người.

    Theo một báo cáo gần đây của Liên Hợp Quốc là mực nước biển dâng cao, lũ lụt, bão, sóng nhiệt và cháy rừng xảy ra nhiều hơn. Mối đe dọa sinh tồn đang dần lớn hơn. Một báo cáo gây chấn động gần đây của Liên Hợp Quốc cho biết 1 triệu loài có nguy cơ tuyệt chủng do hoạt động của con người.

    ​4 biện pháp ai cũng có thể thực hiện để giúp giảm khí thải CO2

    Bằng việc áp dụng chế độ ăn nhiều rau quả, tránh đi lại bằng máy bay, hạn chế sử dụng ôtô cá nhân và thực hiện “kế hoạch hóa” gia đình, mọi người dân trên thế giới sẽ góp phần làm giảm khí thải dioxide carbon (CO2).

    Theo một nghiên cứu được công bố ngày 11-7-2017 trên tạp chí Environmental Research Letters của Thụy Điển, có 4 biện pháp rất hiệu quả mà mọi người dân trên thế giới có thể áp dụng để giảm lượng khí thải CO2 và chống lại tình trạng trái đất nóng lên.

    Đó là áp dụng chế độ ăn nhiều rau quả, tránh đi lại bằng máy bay, hạn chế sử dụng ôtô cá nhân và thực hiện “kế hoạch hóa” gia đình.

    Nghiên cứu cho thấy việc hạn chế sử dụng ôtô cá nhân có thể giúp giảm khoảng 2,4 tấn CO2 mỗi năm, trong khi chế độ ăn uống nhiều rau quả có thể giúp giảm 0,8 tấn khí thải này.

    Cũng như vậy, không đi lại bằng máy bay có thể làm giảm khoảng 1,6 tấn CO2 trong mỗi chuyến đi và sinh đẻ ít con, một biện pháp được coi là hiệu quả nhất để đối phó với tình trạng trái đất nóng lên, có thể giúp giảm trung bình 58,6 tấn CO2/năm.

    Những biện pháp trên được các nhà khoa học nêu ra sau khi phân tích 39 nghiên cứu trong các tạp chí khoa học và báo cáo của chính phủ các nước trên thế giới.

    Những nhà khoa học này cũng nghiên cứu các biện pháp đối phó với tình trạng trái đất nóng lên được thực hiện tại Canada, Mỹ, Australia, châu Âu và nhận thấy rằng những biện pháp này nhìn chung đã giúp giảm một cách rõ rệt lượng khí thải CO2.

    Theo VietQ/Tuoitre (6/6/2019)

    Canada chi hơn 11 triệu USD xây dựng di sản thiên nhiên từ cây xanh

    Chính phủ Canada cho rằng đầu tư trồng cây gây rừng chính là xây dựng di sản thiên nhiên cho các thế hệ sau này.

    Theo phóng viên TTXVN tại Ottawa, ngày 5/6, Bộ trưởng phụ trách vấn đề môi trường và biến đổi khí hậu của Canada, bà Catherine McKenna và ông Paul Lefebvre, Thư ký Quốc hội của Bộ trưởng Tài nguyên thiên nhiên, cho biết Chính phủ Canada dự kiến đầu tư 15 triệu CAD (tương đương 11,18 triệu USD) trong 4 năm tới để hỗ trợ Chương trình Trồng 50 triệu cây xanh của tổ chức Forests Ontario tại tỉnh Ontario vào năm 2025.

    Chính phủ Canada cho rằng đầu tư trồng cây gây rừng chính là xây dựng di sản thiên nhiên cho các thế hệ sau này, đồng thời giữ cho các cánh rừng khỏe mạnh là một trong những giải pháp tốt nhất để đối phó với tình trạng biến đổi khí hậu.

    Bộ trưởng McKenna khẳng định những dự án như thế này sẽ hỗ trợ tạo việc làm tại địa phương và giúp nền kinh tế vững mạnh hơn.

    Trong 4 thập niên qua, các khu rừng trên thế giới đã hấp thu 25% lượng khí carbon do các hoạt động của con người thải ra. Các nghiên cứu cho thấy một hệ sinh thái lành mạnh khi có diện tích rừng chiếm 40%. Hiện tỷ lệ này tại khu vực Trung/Nam Ontario ở mức trung bình 26%.

    Khoản tài trợ mới này của chính phủ liên bang Canada được đưa ra sau thông báo hồi mùa Thu năm ngoái rằng Ottawa dành 420 triệu CAD cho các sáng kiến về môi trường của các tổ chức ở Ontario nhằm hạn chế các tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu.

    Nhiệt độ Trái Đất đã tăng thêm 1 độ C chỉ trong 3 năm qua cùng với mực nước biển dâng cao, cháy rừng nghiêm trọng tại nhiều quốc gia, các hình thái thời tiết cực đoan xuất hiện với tần suất ngày một dày hơn, diễn biến phức tạp và khó lường hơn….

    Tất cả những điều này đã khiến biến đổi khí hậu trở thành một trong những mối đe dọa lớn nhất đối với nhân loại hiện nay. Hồi năm ngoái, Tổng Thư ký Liên hợp quốc Antonio Guterres cảnh báo biến đổi khí hậu khiến nền kinh tế toàn cầu gánh chịu thiệt hại lên đến 21.000 tỷ USD vào năm 2050.

    Theo TTXVN (6/6/2019)

    Công nghệ in 3D và những trong ngành công nghiệp thời trang

    Công nghệ in 3D là khái niệm không quá xa lạ trong thời trang. Tuy nhiên, tính ứng dụng của nó vào thực tiễn vẫn mới chỉ ở bước đầu.

    Chúng ta có thể thưởng lãm tương lai của công nghệ in 3D qua các triển lãm. Ví dụ, “Manus x Machina” tại Bảo tàng Nghệ thuật Metropolitan, New York, vào năm 2016. Triển lãm đã chỉ ra sự khác biệt giữa hàng may mặc thủ công và hàng may mặc kỹ thuật mới. Đồng thời, một vài kiệt tác như các bộ suit của Chanel được in bằng kỹ thuật 3D cũng được giới thiệu.

    Triển lãm này đã hé lộ bức màn của sự hiện diện mới mẻ của kỹ thuật in 3D trong thời trang. Nhiều người xem đây là bước ngoặt mới mở ra giải pháp cho các ngành công nghiệp may dệt. Ngành may mặc vốn đang đối mặt với những vấn đề liên quan đến môi trường.


    Công nghệ in 3D là bước đột phá trong ngành thời trang

    Tuy nhiên, việc áp dụng công nghệ này ở quy mô đại trà vẫn là một sự thách thức. Bởi lẽ, công nghệ này đòi hỏi khá nhiều chi tiết phức tạp.

    Công nghệ 3D khuếch trương khả năng sáng tạo

    Công nghệ 3D phù hợp để hiện thực hóa các cấu trúc phức tạp. Như chiếc váy của nhà Zac Posen mà Jourdan Dunn đã mặc tại MET Gala năm nay. Hoặc những chiếc đầm mang hình ảnh khung xương người của nhà thiết kế Hà Lan Iris van Herpen. Các thiết kế này được chế tác hoàn toàn từ kỹ thuật in 3D. Và những kiểu giày cao gót 25cm của thiên tài quá cố Alexander Mcqueen trong show diễn Plato Atlantis năm 2010.

    Valérie Vriamont, nhà phát triển kinh doanh và tư vấn đổi mới tại Materialize cho biết: “Kỹ thuật in 3D giúp chắp cánh cho sự sáng tạo của các nhà thiết kế”. Công ty có trụ sở tại Bỉ này chuyên gia công các sản phẩm thời trang kỹ thuật 3D cho nhà Iris Van Herpen.

    Materialize còn sản xuất gọng kính và đế giày cho nhiều thương hiệu thời trang bình dân. Theo Vriamont, tỷ lệ sử dụng gọng kính in 3D đã tăng mạnh. Phương pháp in 3D cung cấp sự linh hoạt trong sản xuất. Bởi vì kỹ thuật 3D cho phép cập nhật mẫu mã gọng kíng thật nhanh, theo xu hướng thời trang mới. Chỉ cần thay đổi những thông số trên file thiết kế điện tử. Công nghệ 3D còn giúp tránh rủi ro tồn đọng hàng, vốn là điều khó tránh khỏi nếu sử dụng phương thức sản xuất truyền thống.

    Những đôi giày Futurecraft của Adidas

    “Tưởng tượng bạn bước vào một cửa hàng Adidas. Chỉ cần chạy vài phút trên máy chạy bộ. Ngay lập tức, máy sẽ sản xuất một đôi giày in 3D vừa vặn như in với bàn chân bạn!”.

    Đây là tuyên bố của Adidas khi giới thiệu mẫu Futurecraft, một đôi giày thể thao với đế in 3D. Năm ngoái, Adidas đã bán hơn 100,000 đôi Futurecraft 4D. Giá bán lẻ khoảng 300 đô-la Mỹ nhưng Adidas vẫn bán cháy hàng. Thậm chí, thương hiệu thể thao còn muốn tăng sản lượng trong tương lai.


    Những chiếc giầy được làm từ công nghệ 3D của Adidas được bán rất chạy.

    Khác với kỹ thuật gia công thông thường, đế giày được sử dụng công nghệ in 3D có thể thay đổi dễ dàng theo vóc dáng của người mua hàng. Ví dụ tùy chỉnh độ dày mỏng dựa vào nhân trắc học, thói quen sinh hoạt và trọng lượng của người mặc. Tuy nhiên, việc cá nhân hóa từng chiếc giày còn khá xa vời. Adidas hiện đang hợp tác với công ty công nghệ Carbon của Mỹ để rút ngắn thời gian in ấn. Đồng thời, đánh giá doanh thu tiềm tàng của loại giày này trong tương lai.

    Những hạn chế của công nghệ in 3D trong thời trang

    Cho đến nay, ngành in ấn 3D mới chủ yếu được áp dụng cho các sản phẩm concept. Hoặc những thiết kế thời trang và nữ trang haute couture.

    Ông Alexander Artschwager, nhà nghiên cứu tại viện Denkendorf phát biểu: “Vẫn còn rất nhiều việc phải làm cho đến khi công nghệ này được đưa vào thực tiễn”. Ông cũng nhận định, hẳn còn mất một thời gian rất dài trước khi công nghệ in 3D được áp dụng vào việc sản xuất hàng loạt. Đặc biệt vì công nghệ in 3D chưa giải quyết được vấn đề dệt vải. Nếu có, các dự án đang dừng chân ở thể trạng thử nghiệm.

    Bên cạnh đó, chi phí in ấn 3D cũng còn khá cao. Đây là một bức tường ngăn trở sự mở rộng của công nghệ này trong ngành may mặc. Những sinh viên trẻ muốn áp dụng công nghệ 3D vào tác phẩm tốt nghiệp phải chi trả lên đến 2,500 Euro. Còn một mẫu áo khoác in bằng 3D hoàn toàn phải có mức giá hơn 10.000 Euro.


    Có thể in 3D trên nhiều chất liệu.

    Ứng dụng công nghệ in 3D trong thời trang tại Việt Nam

    Hôm 01/6/2019, nhà sản xuất công bố dự án phim Phượng khấu. Đây là một bộ phim nói về bà thái hậu Từ Dũ. Đạo diễn Huỳnh Tuấn Anh cho biết: “Phim sẽ phỏng dựng các trang phục của triều Nguyễn”. Bộ phim sẽ sử dụng gần 300 chiếc mão của triều đình cho vua, quan và các cung tần mỹ nữ. Để làm một chiếc mão như vậy phải mất một năm. Nhà sản xuất sẽ ứng dụng công nghệ in 3D vào việc sản xuất những chiếc mão này để đáp ứng nhu cầu dựng phim.

    Đây là dự án đầu tiên ứng dụng công nghệ in 3D tiên tiến của thế giới vào ngành thời trang Việt Nam.

    Tương lai của công nghệ in 3D trong ngành thời trang

    Ông Artschwager nhận định: “Thời trang vẫn phát triển nếu không có kỹ thuật in 3D. Và ngược lại. Chính vì vậy, cả hai cần tương tác với nhau một cách sáng tạo hơn.”

    Có thể kỹ thuật 3D sẽ không thể được ứng dụng rộng rãi. Song, các công ty gia công có thể áp dụng công nghệ này để rút ngắn các khâu sản xuất. Chẳng hạn, như trong công đoạn sản xuất hàng mẫu. Các sản phẩm mẫu in 3D sẽ dễ dàng giúp nhà sản xuất thay đổi thông số, kích cỡ hay họa tiết. Chắc chắn đây sẽ là những bước tiến đầu tiên của sự hòa nhập giữa kỹ thuật in 3D và ngành may mặc.

    Theo tapchicongthuong.vn (6/6/2019)

    Ngưng dùng hộp nhựa đựng thực phẩm để trẻ luôn khỏe mạnh

    Một nhóm các bác sĩ nhi khoa hàng đầu khuyến cáo các bậc phụ huynh không nên sử dụng hộp nhựa đựng thức ăn cho trẻ bởi chúng có chứa nhiều loại hóa chất độc hại gây ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ.

    Theo các chuyên gia, các loại lon, hộp nhựa và thịt chế biến có chứa các hóa chất độc hại có thể xâm nhập vào máu của trẻ, tác động đến các kích thích tố, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ.

    Mặc dù các hóa chất như BPA (có tác dụng làm cứng nhựa) và nitrat (thành phần giúp bảo quản thực phẩm lâu hơn) là một phần của cuộc sống hàng ngày trong nhiều thập kỷ nhưng các nghiên cứu khoa học đều chỉ ra rằng những chất này không an toàn.

    Theo các nhà nghiên cứu, những người có thu nhập thấp, dân tộc thiểu số có xu hướng tiếp xúc với các hóa chất này ở nồng độ cao hơn.


    Hộp nhựa đựng thức ăn có chứa nhiều loại hóa chất độc hại gây ảnh hưởng tới sự phát triển của trẻ.

    Mặc dù theo các quy định của cơ quan chức năng có khoảng 1.000 loại hóa chất chứa trong thực phẩm và các dụng cụ chứa thực phẩm được dán mác an toàn, tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu, ngưỡng an toàn đặt ra vẫn còn cao và có thể gây ảnh hưởng cho trẻ. Một loạt các nghiên cứu gần đây cũng cảnh báo về mức độ tiếp xúc với các hóa chất này, nhưng hầu hết các nghiên cứu đều tập trung vào ảnh hưởng của chúng tới phụ nữ mang thai và thai nhi.

    Tiến sĩ Janice Juraska thuộc Đại học Illinois cho biết, cô đã bị “sốc” khi kết quả nghiên cứu cho thấy phụ nữ ăn thức ăn đựng trong các hộp nhựa phản ứng chậm hơn.

    Một nghiên cứu của Đại học California, San Francisco cũng cho thấy hầu hết phụ nữ có thai có ít nhất 50 hóa chất như BPA, triclosan và parabens trong máu của họ.

    Với mỗi báo cáo, các nhà hóa học và nội tiết học cảnh báo rằng việc tiếp xúc với những hóa chất này trong tử cung có thể thay đổi cuộc sống của thai nhi sau này.

    Các hóa chất bao gồm: Phthalates: hóa chất được sử dụng nhằm làm cho nhựa dẻo và nước hoa giữ mùi lâu hơn; BPA: hóa chất được sử dụng để làm cho các đồ dùng bằng nhựa cứng hơn; PFCs: được sử dụng sản xuất các dụng cụ chống dính; Perchlorate: được sử dụng trong bao bì thực phẩm bằng nhựa; Nitrat: được sử dụng để bảo quản thực phẩm và duy trì màu sắc của thực phẩm, đặc biệt là trong thịt chế biến.

    Các chuyên gia thừa nhận, việc tránh sử dụng các hóa chất này có thể khó khăn nhất là với các hộ gia đình có thu nhập thấp. Các đồ dùng không chứa độc tố như hộp đựng thực phẩm bằng thép hoặc chai thủy tinh tái sử dụng thường có giá cả cao hơn. Thực phẩm tươi sống, hữu cơ không chứa chất bảo quản cũng đắt tiền.

    Để giải quyết vấn đề này, các chuyên gia đưa ra một số khuyến cáo sau: Ưu tiên tiêu thụ rau quả tươi hoặc đông lạnh; Tránh các loại thịt chế biến, đặc biệt là phụ nữ mang thai; Tránh làm nóng thức ăn hoặc đồ uống bằng lò vi sóng (bao gồm sữa bột cho trẻ sơ sinh và sữa mẹ);Sử dụng các đồ dùng bằng thủy tinh, thép không gỉ thay cho nhựa.

    Theo Huy Hoàng/vietq.vn (6/6/2019)

    Triển khai Chiến dịch Làm sạch sông Mê Kông bằng năng lượng mặt trời tại Việt Nam

    Hưởng ứng Ngày Môi trường Thế giới 5/6/2019, tại TP.Vĩnh Long, Tổng cục Môi trường, Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu (Global Green Growth Institute – GGGI) phối hợp với Tập đoàn Hanwha đã phát động Chiến dịch “Làm sạch sông Mê Kông” tại tỉnh Vĩnh Long.

    Chiến dịch nhằm chống lại tình trạng ô nhiễm nước do chất thải trôi nổi trên sông Mê Kông. Tham dự sự kiện có ông Trần Hoàng Tựu, Phó Chủ tịch thường trực, UBND tỉnh Vĩnh Long; bà Nguyễn Thị Thiên Phương – Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế, Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT; bà Lê Thị Mỹ Hạnh, Phó Trưởng đại diện Viện Tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI) tại Việt Nam.

    Về phía Tập đoàn Hanwha có ông Sun-Mok Choi – Chủ tịch kiêm Trưởng ban Truyền thông Hanwha; ông Back Jong Kook – Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc của Hanwha Life Việt Nam; ông Doo Hwan Chun – Phó Chủ tịch cấp cao kiêm Tổng Giám đốc Công ty Hanwha Techwin Security Việt Nam. Tham dự buổi Lễ còn có đại diện các cơ quan thông tin đại chúng và 30 tình nguyện viên là sinh viên đại học tại địa phương cùng tham gia hoạt động nhặt rác tại bến tàu TP. Vĩnh Long.

    Ông Sun-Mok Choi – Chủ tịch kiêm Trưởng ban Truyền thông Tập đoàn Hanwha phát biểu tại buổi lễ.

    Tại Lễ công bố Chiến dịch, Tập đoàn Hanwha đã trao tặng hai chiếc thuyền chạy bằng năng lượng mặt trời, sẽ được sử dụng để làm sạch sông Mê Kông. Bên cạnh hoạt động này, Tập đoàn Hanwha còn thực hiện Chiến dịch truyền thông trên mạng xã hội giúp nâng cao nhận thức cộng đồng về các vấn đề ô nhiễm môi trường. Theo đó, công dân Việt Nam được khuyến khích tham gia nhằm nâng cao nhận thức về môi trường bằng cách tải lên các thông điệp khuyến khích để hỗ trợ và làm tăng sức mạnh một nhân vật là anh hùng mặt trời trên trang Facebook. Chiến dịch đã thu hút 3,3 triệu lượt xem video và hơn 870 bình luận chỉ trong vòng một tuần.

    Chống lại ô nhiễm bằng năng lượng mặt trời

    Là con sông xuyên biên giới chạy qua Trung Quốc, Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam trước khi đổ ra Biển Đông, sông Mê Kông mang theo 475 km³ nước hàng năm và hơn 70 triệu người sống dựa vào nguồn nước chính này. Tuy nhiên, việc vứt rác thải và xả nước thải bừa bãi dọc theo chiều dài sông đã biến sông Mê Kông trở thành một trong mười con sông ô nhiễm nhất thế giới. Hiện, những nỗ lực làm sạch dọc theo sông Mê Kông còn bị hạn chế vì chưa có nguồn lực đủ lớn để thực hiện. Rác thải đang được thu gom trên sông một cách thủ công từ những chiếc thuyền chạy bằng dầu diesel sẽ tiếp tục gây ô nhiễm thông qua rò rỉ và khí thải carbon.

    Các đại biểu đồng hành cùng Chương trình

    Vì vậy, Tập đoàn Hanwha đã trao tặng một chiếc thuyền chạy bằng năng lượng mặt trời giúp làm sạch sông Mê Kông. Được vận hành bởi các mô-đun năng lượng mặt trời Hanwha Q CELLS’ Q.PEAK, chiếc thuyền sẽ được sử dụng để thu gom rác thải trên sông Mê Kông mà không thải thêm khí nhà kính hoặc các chất gây ô nhiễm khác. Hơn nữa thuyền chạy khá im lặng, tiếng máy chạy rất nhỏ, không gây ảnh hưởng đối với động vật hoang dã địa phương. Đây là nỗ lực mới nhất trong các hoạt động BVMT của tập đoàn Hanwha, nhằm chống lại biến đổi khí hậu và thiếu hụt năng lượng, đồng thời khuyến khích tiêu dùng có trách nhiệm để hỗ trợ các mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UN SDGs). Đồng thời, Chiến dịch được xây dựng dựa trên cam kết của ông Seung Youn Kim, Chủ tịch Tập đoàn Hanwha: “Hanwha không chỉ quan tâm đến việc chúng tôi có thể đóng góp cho nền kinh tế như thế nào, mà còn là cách chúng tôi có thể giúp đỡ giải quyết các vấn đề môi trường”.

    Hai chiếc thuyền thu gom rác chạy bằng năng lượng mặt trời

    Không chỉ ở Việt Nam, Tâp đoàn Hanwha còn có các hoạt động cộng đồng khác để hỗ trợ các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc như “Hanwha Solar Forest”, chống lại sa mạc hóa và ô nhiễm không khí thông qua việc trồng rừng theo mô hình mới: cây được trồng trong các vườn ươm năng lượng mặt trời. Đây được xem là sáng kiến đầu tiên trên thế giới sử dụng năng lượng mặt trời để chống sa mạc hóa tại Hội nghị thượng đỉnh về chống sa mạc hóa của Liên hợp quốc (UNCCD) vào năm 2011. Ngoài ra, với sáng kiến ​​Happy Sunshine, Tập đoàn Hanwha đã tặng các hệ thống năng lượng mặt trời trị giá 1.779kW cho 254 dự án phát triển cộng đồng và các vùng sâu vùng xa khắp nơi trên thế giới kể từ năm 2011.

    Thay mặt cho Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT, bà Nguyễn Thị Thiên Phương – Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế cho biết: “Từ cuối năm 2018 và đầu năm 2019, với mục tiêu hướng tới BVMT, giảm phát thải, chất thải rắn sinh hoạt và rác thải nhựa, Tổng cục Môi trường đã phối hợp với tập đoàn Hanwha và Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu – GGGI, khảo sát các tỉnh Vĩnh Long, Thừa Thiên – Huế và Quảng Ninh để hỗ trợ các hoạt động thu gom, vận chuyển và xử lý rác thải trôi nổi trên mặt nước bằng các phương tiện thân thiện với môi trường và kết quả là Vĩnh Long, với những lợi thế và ưu điểm của mình, đã được lựa chọn là địa phương đầu tiên tiếp nhận và sử dụng thuyền chạy bằng năng lượng mặt trời giúp làm sạch sông Mê Kông.

    Chúng tôi cũng hy vọng và tin tưởng, với những đặc tính như tiết kiệm năng lượng, máy chạy êm của thiết bị cùng với sự quan tâm phối hợp từ phía UBND tỉnh Vĩnh Long trong triển khai hoạt động của thuyền sẽ giúp cho Vĩnh Long thực hiện tốt chương trình làm sạch sông Mê Kông, góp phần vào công cuộc BVMT và phát triển vững khu vực Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng cũng như của cả nước nói chung. Nhân dịp này, tôi xin trân trọng cảm ơn sự tham gia tích cực của chính quyền tỉnh Vĩnh Long, Tập đoàn Hanwha, Viện Tăng trưởng Xanh Toàn cầu – GGGI đã nỗ lực đồng hành cùng Tổng cục Môi trường, Bộ TN&MT trong các hoạt động BVMT, thích ứng với biến đổi khí hậu và thiếu hụt năng lượng, đồng thời khuyến khích tiêu dùng có trách nhiệm hướng tới các mục tiêu Phát triển bền vững của Liên hợp quốc”.

    Đại diện đơn vị tiếp nhận, ông Trần Hoàng Tựu, Phó Chủ tịch thường trực, UBND tỉnh Vĩnh Long cho biết: Nhân ngày Môi trường Thế giới 5/6 đã diễn ra Lễ tiếp nhận 2 tàu thu gom rác chạy bằng năng lượng mặt trời do Tập đoàn Hanwha tài trợ là vô cùng ý nghĩa. Đây là phương tiện mới tại Vĩnh Long, trong quá trình vận hành thử nghiệm, UBND tỉnh giao Công ty CP Công trình công cộng Vĩnh Long phối hợp với nhà sản xuất nắm quy trình vận hành, phát huy hiệu quả của phương tiện; thường xuyên báo cáo cho UBND tỉnh trong công tác thu gom rác trên sông, giải quyết tình trạng ô nhiễm do rác thải tren các dòng sông, nhất là các vùng đô thị tại tỉnh Vĩnh Long.

    Các đại biểu và tình nguyện viên tham gia phát động Chiến dịch “Làm sạch sông Mê Kông” tại tỉnh Vĩnh Long.

    Ông Back Jong Kook, Chủ tịch Hội đồng Thành viên kiêm Tổng Giám đốc Hanwha Life Việt Nam, một thành viên của Tập đoàn Hanwha, phát biểu “làm sạch sông Mê Kông là dự án BVMT thực sự có ý nghĩa giúp BVMT và nâng cao chất lượng đời sống cho người dân địa phương. Hoạt động này thêm một lần nữa khẳng định sứ mệnh của Tập đoàn Hanwha và Hanwha Life Việt Nam luôn mong muốn đóng góp nhiều hơn nữa cho Việt Nam như một thành viên của cộng đồng địa phương”.

    Đóng góp hơn nữa cho cộng đồng

    Phát biểu về những nỗ lực của tâp đoàn trong việc tác động tích cực tới biến đổi môi trường, ông Sun-Mok Choi, Chủ tịch kiêm Trưởng ban Truyền thông tâp đoàn Hanwha, cho hay “Tại Việt Nam, một thị trường chiến lược quan trọng đối với Hanwha, chúng tôi sẽ thiết lập một cơ sở hạ tầng sẽ thay đổi cách thức thực hiện các sáng kiến ​​môi trường bền vững theo cách cơ bản và thân thiện với môi trường”.

    Không chỉ nỗ lực cải thiện môi trường sống cho Việt Nam, 10 năm qua Hanwha Life Việt Nam, một thành viên của Tập đoàn Hanwha đã có nhiều đóng góp tích cực cho nền kinh tế Việt Nam và cộng đồng địa phương. Là doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hàn Quốc hoạt động tại Việt Nam, trong suốt 10 năm qua Hanwha Life Việt Nam đã tài trợ hơn 30 tỉ đồng cho nhiều dự án cộng đồng. Theo đó, Hanwha Việt Nam đã trao tặng 50.313 thẻ BHYT cho người nghèo, xây dựng hơn 160 căn nhà tình thương trên khắp cả nước. Ngoài ra, công ty đã xây dựng bốn trung tâm y tế, hai trường học, trao tặng nhiều học bổng, xe đạp và tổ chức các hoạt động thiện nguyện giúp đỡ các em nhỏ có hoàn cảnh khó khăn ở nhiều địa phương. Hiện, Hanwha Life Việt Nam có hơn 130 điểm phục vụ khách hàng, 250 nhân viên cùng 40.000 tư vấn tài chính phục vụ cho hơn 500 triệu khách hàng trên cả nước.

    Theo Phạm Tuyên/tapchimoitruong.vn (5/6/2019)

    Dự báo năm 2019 sẽ là năm nóng nhất trong lịch sử nhân loại

    Các dự báo của nhiều trung tâm dự báo khí tượng thủy văn hàng đầu thế giới cho đến nay đều nhận định rằng: năm 2019 sẽ là một năm nóng, thậm chí là nóng nhất trong lịch sử quan trắc của nhân loại. Nguyên nhân được xác định là do tác động của biến đổi khí hậu và hiện tượng El Nino.

    Nhiệt độ tăng trung bình 1,1 độ C

    Tại Hội nghị Liên hợp quốc về Biến đổi khí hậu được tổ chức ở Ba Lan năm ngoái, các nhà khí tượng và các cơ quan dự báo khí tượng hiện đại nhất đều dự báo rằng nhiệt độ trung bình toàn cầu trong năm 2019 dự kiến sẽ tăng 1,1 độ C, tức gần bằng với mức kỷ lục được xác lập năm 2016, khi nhiệt độ trung bình năm tăng 1,15 độ C so với giai đoạn trước. Nóng kỷ lục được dự báo sẽ diễn ra ở Anh, với nhiệt độ trung bình của năm 2019 tăng 0,96 độ C. Australia cũng được dự báo sẽ đón mùa hè năm 2019 trong nền nhiệt cao nhất từ trước đến nay.

    Đặc biệt, một số dự báo cho rằng 2019, hiện tượng ấm lên toàn cầu có thể biến 2019 thành năm nóng nhất trong lịch sử. Theo các nghiên cứu, năm 2018, thế giới ấm hơn 0,83 độ C so với mức nhiệt ở trước thời kỳ công nghiệp. Trong năm nay, mức tăng trung bình của nhiệt độ toàn cầu theo dự kiến là khoảng 1,1 độ C. Đây là kết quả từ tình trạng biến đổi khí hậu dưới tác động của con người.

    Ngoài hiện tượng ấm lên toàn cầu, sự ấm lên bất thường của Thái Bình Dương do hiện tượng tự nhiên tên El Nino cũng góp phần khiến nhiệt độ tăng cao trong năm 2019. Theo các nhà nghiên cứu, thông thường Thái Bình Dương hấp thụ nhiệt liên tục. Tuy nhiên, khi xảy ra hiện tượng El Nino, bề mặt Thái Bình Dương truyền nhiệt vào khí quyển, khiến không khí ấm lên, kéo theo nhiệt độ toàn cầu gia tăng.

    Cơ quan Khí tượng Thủy văn Quốc gia Anh cho biết, El Nino từng hoạt động mạnh từ cuối năm 2015 đến đầu năm 2016, góp phần tăng nhiệt độ toàn cầu lên mức cao nhất trong giai đoạn này. Theo Trung tâm Dự báo Khí hậu tại Cơ quan Khí quyển và Đại dương quốc gia Mỹ (NOAA), khả năng 90% hiện tượng El Nino sẽ hình thành và tiếp tục qua mùa đông ở Bắc bán cầu 2018 – 2019.

    Dấu hiệu về một đợt El Nino mạnh trong năm 2019 đã thể hiện rõ nét thông qua những đợt nóng bất thường được ghi nhận trên thế giới thời gian qua, đe dọa làm gia tăng ảnh hưởng của nhiệt độ không khí toàn cầu cũng như bất thường về khí hậu. Đáng lo ngại hơn, những tác động của hiện tượng tự nhiên này sẽ càng tồi tệ hơn khi nhiệt độ Trái Đất tiếp tục tăng do quá trình biến đổi khí hậu nhân tạo do hoạt động sản xuất, sinh hoạt của con người diễn ra không ngừng.

    “Do ảnh hưởng của El Nino, năm 2019 có thể là năm nóng nhất trong lịch sử”, bà Samantha Stevenson – một nhà khoa học khí hậu tại Đại học California của Mỹ – nhận định.

    Thực tế đã cho thấy, chỉ mới đầu hè năm 2019 nhưng nhiều nơi trên thế giới đã hứng chịu những đợt nắng nóng lịch sử. Theo NOAA, trong những tháng vừa qua, nhiệt độ bất thường đã được ghi nhận ở nhiều khu vực tại Úc, miền bắc bán đảo Alaska, tây bắc Canada, miền nam Brazil, biển Barents, biển Tasman và Hoa Đông cùng nhiều khu vực khác.

    Tại một số nước như Anh và Nga, vào mùa xuân vừa qua, người dân đã chứng kiến bầu không khí như mùa hè với nền nhiệt 25-26 độ C, chênh lệch tới khoảng 10 độ C so với thông thường.

    Lo ngại về những hiện tượng thời tiết cực đoan

    Tháng 11/2018, Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) từng dự báo 2018 sẽ là năm nóng thứ 4 trong lịch sử được ghi nhận. Đến tháng 2 vừa qua, Liên hợp quốc xác nhận 4 năm vừa qua, bao gồm các năm 2015, 2016, 2017 và 2018, là 4 năm nóng nhất kể từ khi dữ liệu về nhiệt độ trên Trái Đất được ghi lại. Trong đó, từ so sánh dữ liệu về nhiệt độ từ thế kỷ 19, WMO cho hay, 2016 là năm nóng nhất trong lịch sử, sau đó đến các năm 2015, 2017 và 2018.

    Theo báo cáo của WMO, trong vòng 22 năm qua, có tới 20 năm nhiệt độ được đánh giá là nóng nhất trong lịch sử nhân loại. Trong khi đó, mức nhiệt được dự báo sẽ còn tiếp tục tăng trong những năm tiếp theo, tiệm cận mức nhiệt mà hầu hết các chính phủ đều coi là nguy hiểm cho Trái Đất.

    “Xu hướng nhiệt độ trong dài hạn quan trọng hơn nhiều so với xếp hạng của từng năm và đó là một xu hướng tăng. Mức độ ấm lên trong 4 năm qua là đặc biệt, cả trên đất liền và đại dương”, Tổng thư ký WMO Petteri Taalas cảnh báo.

    Nhiệt độ tăng lên không chỉ làm mùa hè nóng hơn mà còn dẫn tới nhiều hiện tượng thời tiết cực đoan và làm rối loạn chu kỳ khí hậu trong tự nhiên. Nó có thể làm thay đổi thời gian và địa điểm tuyết rơi hay mặt hồ đóng băng, thiết lập lại cách đại dương tuần hoàn. WMO cho hay, nhiệt độ tăng cao cũng góp phần gây ra một số hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, hạn hán và lũ quét.

    “Nhiều sự kiện thời tiết cực đoan diễn ra trong thời gian qua tương đồng với những gì chúng ta đã được cảnh báo do biến đổi khí hậu. Đây là thực tế chúng ta cần phải đối mặt”, ông Taalas nói thêm.

    Một báo cáo được công bố năm 2017 cho thấy khoảng 30% người dân trên thế giới phải chịu nhiệt độ và độ ẩm nguy hiểm ít nhất 20 ngày/năm. Theo phân tích này, nếu lượng khí nhà kính thải ra tiếp tục tăng ở tốc độ hiện tại, 74% dân số toàn cầu sẽ trải qua hơn 20 ngày có sóng dịch nguy hiểm, hay nói cách khác, cứ 4 người thì sẽ có 3 người bị ảnh hưởng bởi sóng nhiệt. WMO cảnh báo rằng sóng nhiệt dữ dội “đang trở nên thường xuyên hơn do hậu quả của biến đổi khí hậu”.

    “Tác động dài hạn của biến đổi khí hậu đã có thể cảm nhận được rõ ràng qua những vụ lũ lụt ở các khu vực sát biển, các đợt nóng, lượng mưa và hệ sinh thái biến đổi lớn”, ông Gavin Schmidt – Giám đốc Viện nghiên cứu vũ trụ Goddard trực thuộc Cơ quan Hàng không và Vũ trụ (NASA) – nhận định.

    Bắc Cực cũng đang ấm dần lên ở tốc độ nhanh gấp đôi những nơi khác trên hành tinh. Việc tiếp tục mất băng và tuyết bao phủ sẽ gây ra những thay đổi lớn ở nhiệt độ không khí. Khí quyển sẽ ấm lên do không còn băng làm mát mặt đất. Theo báo cáo của NASA và NOAA, lớp băng trên biển ở Bắc Cực và Nam Cực đều đã đánh dấu mức thấp thứ 2 từng được quan sát.

    Hiện tượng ấm lên toàn cầu còn gây ra những cơn bão mạnh hơn và thường xuyên hơn. Một thống kê cho hay, số bão nhiệt đới trung bình ở Bắc bán cầu là 53 nhưng năm 2018, con số này là 70 cơn. Trong đó, trong năm qua đã xảy ra 14 thảm họa liên quan đến thời tiết gây tổn thất từ 1 tỷ USD trở lên. “Tổng cộng đã có 14 thảm họa đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 247 người, gây thiệt hại 91 tỷ USD. Khoảng 73 tỷ USD trong số này là do 3 bão Michael, bão Florence và các vụ cháy rừng ở phương Tây”, NOAA cho biết trong một tuyên bố.

    Theo một báo cáo của Liên hợp quốc năm 2018, theo xu hướng hiện nay, nhiệt độ của Trái Đất có thể sẽ tăng hơn mức 1,5 độ C trong khoảng thời gian từ năm 2030 đến năm 2052, gây ra nhiều đợt nắng nóng, bão mạnh, hạn hán, lở đất, tuyệt chủng và mực nước biển dâng cao.

    Theo báo cáo, trong bối cảnh phần lớn thế giới vẫn tiếp tục phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch, khí nhà kính sẽ tiếp tục được thải ra, khiến nhiệt độ trong khí quyển tăng cao. Ông Rowan Sutton – Giám đốc khoa học của Trung tâm Khoa học Khí quyển Quốc gia (NCAS) Mỹ cảnh báo, thế giới nhiều khả năng sẽ chứng kiến nhiều kỷ lục về nhiệt hơn trong những năm tới.

    Theo Phapluatplus.vn (5/6/2019)

    Đồ uống không đường có tốt như bạn tưởng?

    Theo các chuyên gia, đồ uống không đường khiến trẻ em có nguy cơ mắc bệnh cao hơn và có thể ảnh hưởng tới hành vi của trẻ suốt cuộc đời.

    Họ cũng cảnh báo, việc thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh giúp giảm nguy cơ phát triển của các dịch bệnh, nhất là khi tỷ lệ mắc béo phì, bệnh tiểu đường, bệnh tim và một số bệnh ung thư đang gia tăng ngày một nhanh.

    Nhóm nghiên cứu thuộc Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ lưu ý rằng, các loại đồ uống đóng chai thường được tiêu thụ số lượng lớn. Theo khảo sát kiểm tra sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia, vào năm 2006, người lớn uống trung bình khoảng 160ml đồ uống có hàm lượng calo thấp mỗi ngày, tương đương khoảng một nửa lon soda. Dữ liệu năm 2014 cho thấy người lớn chỉ uống 108ml mỗi ngày, trong khi đó, trẻ em và thanh thiếu niên uống ít hơn 28ml.

    Tuy nhiên, cũng theo khảo sát, người lớn đã uống trung bình 460ml đồ uống có đường(SSB) mỗi ngày vào năm 2000, lượng đồ uống này giảm xuống còn 239ml vào năm 2014. Ở trẻ em, lượng đồ uống tiêu thụ giảm mạnh hơn từ 540ml còn 244ml vào năm 2014.

    Vào năm 2016, Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ đã đưa ra khuyến nghị rằng trẻ em tiêu thụ không quá sáu muỗng cà phê đường mỗi ngày.


    Ngay cả đồ uống không đường cũng có thể khiến bạn tăng cân, mắc tiểu đường loại 2, mất trí nhớ và đột quỵ. 

    Tiến sĩ Alice Lichtenstein, Phó chủ tịch nhóm và một giáo sư về khoa học dinh dưỡng và chính sách tại Đại học Tufts ở Boston cho biết, họ biết đến rất nhiều tác dụng phụ tiềm tàng của chất làm ngọt có hàm lượng calo thấp. Do vậy lời khuyên tốt nhất lúc này là giảm lượng tiêu thụ và tránh tiêu thụ quá mức.

    Mặc dù Cơ quan Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã công nhận các chất làm ngọt thấp và không có calo là an toàn nhưng nhiều chuyên gia cho biết, các chất này không nên được dán mác an toàn.

    Christopher Gardner – Giám đốc nghiên cứu dinh dưỡng tại Đại học Stanford cho biết thêm: “Soda nhân tạo không mang lại lợi ích, không thúc đẩy sức khỏe. Vai trò duy nhất liên quan đến sức khỏe mà nó có là một thức uống chuyển tiếp hoặc thay thế đồ uống có đường”.

    Theo Huy Hoàng/vietq.vn (5/6/2019)

    Thử nghiệm sử dụng chất xúc tác EPLUS giúp sản xuất sạch hơn

    Chất phụ gia xúc tác EPLUS là một sản phẩm công nghệ mới, sử dụng chất xúc tác nano Titan Dioxit (TiO2) hòa trong dung môi hữu cơ ở dạng lỏng. Dung dịch phụ gia xúc tác EPLUS, sau đó được chuyển sang pha khí và chuyển vào được gió cấp oxy cho các lò hơi/lò đốt.

    Theo đánh giá, hiệu quả mà chất phụ gia xúc tác EPLUS mang lại là rất lớn. Cụ thể, Chất xúc tác gặp than tại điểm đầu vòi đốt, ánh sáng và nhiệt độ của ngọn lửa lò làm phát huy phản ứng hoạt hóa, sinh ra một loạt các phản ứng nhằm làm giàu oxy. Phản ứng cháy nhờ đó xảy ra nhanh hơn, điểm bắt cháy giảm xuống và than cháy kiệt với thời gian ngắn hơn, làm tăng nhiệt lò, tăng lượng O2 làm than cháy kiệt hơn. Đồng thời, với việc làm giàu oxy trong lò, thành phần quang xúc tác nano TiO2 còn có tác dụng khử SOx, NOx sinh ra trong quá trình cháy than ở trong lò, giúp giảm phát thải khí độc hại ra môi trường.

    Trung tâm vận hành Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình

    Bên cạnh đó, việc sử dụng chất xúc tác EPLUS trong các lò hơi còn giúp giảm thiểu sự ăn mòn do xỉ bám, làm sạch lò, giảm tiêu hao than và giảm chi phí sản xuất do tiết kiệm nhiên liệu.

    Xác định được những hiệu quả kinh tế và môi trường mà chất phụ gia xúc tác EPLUS mang lại, Công ty Cổ phần (CP) Nhiệt điện Ninh Bình đã thử nghiệm sử dụng chất xúc tác này trong đốt lò tại 4 tổ máy của Nhà máy Nhiệt điện Ninh Bình nhằm mục tiêu nâng cao hiệu suất sử dụng nhiên liệu và giảm thiểu phát thải khí của nhà máy nhiệt điện than. Quá trình đốt thử nghiệm cho thấy, Nhiệt điện Ninh Bình đã giảm được hàm lượng cacbon còn trong tro bay và xỉ được khoảng trên 1 – 2%. Đặc biệt, hiệu suất của 4 lò hơi có thể tăng được trên 1%.

    Có thể nói, việc sử dụng các chất phụ gia đốt kèm được xem là giải pháp tối ưu và cần thiết trong việc phát triển bền vững các ngành công nghiệp có liên quan đến khai thác chế biến và sử dụng than, giúp tiết kiệm năng lượng, giảm lượng than nhiên liệu, giảm thiểu khí phát thải tại các nhà máy nhiệt điện than, cải thiện chất lượng tro, xỉ để có thể trở thành nguyên liệu hữu ích cho ngành xi măng, vật liệu xây dựng.

    Theo Văn phòng SXSH & SXTDBV tổng hợp

    Công nghệ giúp pin năng lượng mặt trời hoạt động “bất ​chấp thời tiết”

    Những tấm pin năng lượng mặt trời không còn là những điều quá xa lạ với chúng ta. Tuy nhiên, chúng chỉ có thể hoạt động hiệu quả vào những ngày có nắng. Vậy vào những ngày mưa thì sao?

    Công nghệ và kỹ thuật của quang điện

    Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Soochow ở Trung Quốc đã đưa ra một giải pháp đầy hứa hẹn cho vấn đề này: Đó là các tấm pin mặt trời có thể tạo ra điện từ những giọt mưa.

    Chuyển động của những giọt mưa cũng có thể tạo ra điện.

    Nghiên cứu được công bố trên Tạp chí ACS Nano đã mô tả chi tiết công nghệ được gọi là máy phát điện ma sát nano, hay TENG (triboelectric nanogenerator). TENG có thể tạo ra điện từ ma sát của hai vật liệu khi cọ xát với nhau, như ma sát của lốp xe với mặt đường, hay chuyển động lăn tròn của những hạt mưa trên tấm pin mặt trời.

    “Với thiết bị này, chúng ta có thể tạo ra năng lượng trong nhiều điều kiện thời tiết khác nhau” – các nhà nghiên cứu cho biết.

    Thách thức ở đây là tạo ra một hệ thống không quá phức tạp, cồng kềnh và đủ tiêu chuẩn để gắn trên mái nhà. Để thực hiện việc này, các nhà nghiên cứu đã phủ 2 lớp polymer trong suốt khác nhau lên bề mặt tấm pin mặt trời. Sử dụng phương pháp tương tự như in đĩa DVD tiêu chuẩn, các nhà nghiên cứu đã thêm vào các đường rãnh trên một tấm polymer để cải thiện khả năng thu năng lượng.

    Trong cuộc thử nghiệm, lớp polyme đã hoạt động như một điện cực chung cho cả TENG và lớp pin mặt trời phía dưới, tạo ra năng lượng khi nước mưa đập vào và kết nối các lớp với nhau. Vì lớp phủ polymer trong suốt cho nên ánh sáng mặt trời vẫn có thể được hấp thụ, mặc dù thấp hơn đôi chút so với khi không có lớp phủ.

    Các lớp polymer trong suốt được phủ thêm để tạo ra điện từ các giọt mưa.

    Đây không phải là một ý tưởng hoàn toàn mới. Năm 2016, một nhóm các nhà nghiên cứu từ Đại học Đại Dương của Trung Quốc đã thành công trong việc tạo ra điện từ các tấm pin năng lượng mặt trời ngay cả khi trời đang mưa, bằng cách phủ bên ngoài các tấm pin một lớp Graphene mỏng.

    Graphene là một loại chất liệu hai chiều, chứa các nguyên tử Cacbon liên kết với nhau theo hình lục giác. Ngoài tính năng dẫn điện tốt thì các Electron có trong graphene có thể di chuyển tự do trên bề mặt của nó.

    Nước mưa là nguồn cung cấp muối hòa tan hoàn hảo với đầy đủ các điện tích dương và điện tích âm. Khi nước mưa đọng lại trên bề mặt tấm graphene, các Electron tự do sẽ kết hợp với các ion mang điện tích dương từ trong nước mưa hình thành nên một tụ điện, sau đó các hạt ion mang điện tích dương như Canxi, Natri sẽ sản sinh các dòng điện. Mặc dù mức năng lượng tạo ra không nhiều, nhưng nó đủ chứng minh rằng thiết bị này vẫn có thể hoạt động ngay cả khi trời mưa.

    Trong tương lai sẽ có những cánh đồng năng lượng mặt trời hoạt động bất kể thời gian hay thời tiết.

    Bất chấp những thách thức thời tiết, năng lượng mặt trời đang nhanh chóng trở thành một trong những nguồn năng lượng phát triển nhanh nhất trên thế giới. Nếu các nhà nghiên cứu sớm tìm ra cách làm giảm chi phí sản xuất, công nghệ mới này có thể trở thành một cuộc cách mạng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo.

    Lúc đó, năng lượng mặt trời sẽ trở thành một giải pháp năng lượng sạch lý tưởng ngay cả ở những khu vực không thường xuyên có nắng. Và một ngày nào đó, chúng ta có thể thấy những cánh đồng năng lượng mặt trời hoạt động không kể thời tiết như thế nào, dù trời mưa, âm u hay thậm chí là cả khi trời tối.

    Theo Nangluongvietnam.vn (29/5/2019)