25 C
Hanoi
Chủ Nhật, Tháng mười một 9, 2025
More
    Home Blog Page 58

    Cách lựa chọn công nghệ máy lọc nước đảm bảo sử dụng an toàn, chất lượng

    Theo các chuyên gia công nghệ để đảm bảo an toàn cho nguồn nước tại gia đình thì khi mua máy lọc nước cần chú ý tới công nghệ lọc nào phù hợp cho gia đình của mình nhưng phải đảm bảo an toàn, chất lượng.

    Nước đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc sống của con người. Hiện nay, thực trạng nguồn nước ở nhiều nơi bị ô nhiễm, nhiều gia đình đã phải tìm đến máy lọc nước như một giải pháp phổ biến, hiệu quả và an toàn để đảm bảo sức khỏe cho cả gia đình. Tuy nhiên hiện nay trên thị trường có rất nhiều công nghệ lọc nước khác nhau như Nano, RO, UV, UF… với mỗi công nghệ có những ưu nhược điểm riêng. Tuy nhiên, trong số đó, công nghệ RO (Reverse Osmosis) và UF (UltraFiltration) là hai công nghệ phổ biến nhất, được nhiều gia đình Việt sử dụng rộng rãi.

    Công nghệ lọc RO

    Công nghệ RO được biết đến là một phương pháp lọc nước tiên tiến, sử dụng phương pháp thẩm thấu ngược để tách các chất cặn bẩn, vi khuẩn, các ion và các hợp chất hòa tan khác khỏi nước.

    Điểm mạnh của công nghệ này là không kén nguồn nước đầu vào, nước giếng, nước máy, nước mưa… đều có thể được lọc sạch. Vì bộ lọc của RO có kích thước rất nhỏ (0,001 – 0,0001 micron), nên nước từ máy lọc RO có độ tinh khiết gần như cao nhất so với các loại máy sử dụng phương pháp lọc khác.

    Tuy nhiên, cũng vì bộ lọc có kích thước quá nhỏ, máy lọc nước RO đòi hỏi phải sử dụng bơm trợ lực để tạo ra áp lực nước đủ lớn, dẫn đến việc tiêu thụ điện năng khi hoạt động. Đồng thời, các khoáng chất cần thiết tốt cho cơ thể cũng không được giữ lại trong quá trình này. Một nhược điểm lớn khác cần lưu ý của công nghệ này là nó tạo ra một lượng nước thải khá cao (từ 50% – 80%) gây lãng phí.


    Công nghệ RO (Reverse Osmosis) và UF (UltraFiltration) là hai công nghệ phổ biến nhất, được nhiều gia đình Việt sử dụng rộng rãi. Ảnh minh họa

    Công nghệ lọc UF

    Công nghệ UF còn được gọi là công nghệ lọc bằng màng lọc sợi rỗng. Công nghệ này dùng màng lọc với kích thước nhỏ chỉ 0,1 micron nên gần như có thể giữ lại được những ion, khoáng chất, muối khoáng có ích đồng thời loại bỏ những phần tử và vi khuẩn gây hại ra khỏi nguồn nước.

    Quá trình lọc UF diễn ra ở nhiệt độ thường và áp suất thấp nên không cần sử dụng điện, giúp tiết kiệm tối đa chi phí. Đồng thời, công nghệ lọc sợi rỗng không thải nước lãng phí như RO, góp phần tiết kiệm nước và bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, công nghệ lọc UF chỉ hoạt động tốt với nguồn nước máy, còn các nguồn nước khác chưa qua xử lý (như nước mưa, nước giếng…) sẽ ảnh hưởng lớn đến tuổi thọ của lõi lọc.

    Nên lựa chọn máy lọc nước theo công nghệ nào?

    Theo chia sẻ của các chuyên gia công nghệ của Công ty cổ phần Thế Giới Di Động, cả hai công nghệ lọc nước RO và UF đều có ưu và nhược riêng vì vậy, khi chọn máy lọc nước, đầu tiên hãy cân nhắc đến nguồn nước đầu vào của gia đình.

    Do nguồn nước ở mỗi vùng miền sẽ có những đặc điểm khác nhau và không có loại máy lọc nước nào có thể phù hợp với tất cả nguồn nước. Chất lượng của nước đầu ra phụ thuộc phần lớn vào việc lựa chọn máy lọc phù hợp với đặc điểm nguồn nước đầu vào ở khu vực mà gia đình đang sinh sống.

    Nếu không chắc chắn về tính chất của nguồn nước để lựa chọn bộ lọc phù hợp thì có thể dễ dàng dẫn đến việc nước không được lọc, vẫn bị nhiễm vi khuẩn và có mùi hôi làm ảnh hưởng lớn đến sức khỏe của các thành viên trong gia đình.

    Ví dụ đối với nước giếng thường có ít loại máy lọc nước phù hợp. Đặc biệt việc sử dụng trực tiếp nước giếng sẽ nhanh chóng làm giảm tuổi thọ của lõi lọc nên cần phải xử lý sơ bộ trước khi đưa vào lõi lọc để đảm bảo chất lượng nước thải đầu ra tốt hơn. Đối với nước máy có thể sử dụng rất nhiều loại máy lọc (RO hay Nano đều thích hợp).

    Một yếu tố khác cũng quan trọng không kém, đó là thương hiệu của máy. Một công nghệ tiên tiến đến từ một thương hiệu uy tín và lâu đời sẽ là một sự lựa chọn thông minh.

    Chọn máy lọc nước dựa vào số lõi lọc tạo khoáng. Lõi lọc tạo khoáng là những lõi lọc bổ trợ được trang bị trong máy lọc nước RO. Những lõi lọc này không có tác dụng chính là lọc nước mà chúng có vai trò tạo khoáng, tạo vị và nâng cao chất lượng nguồn nước đầu ra.

    Nước gần như sẽ được làm sạch hoàn toàn (như nước cất) sau khi qua màng lọc RO. Những lõi lọc từ lõi số 5 đến lõi số 11 có chức năng hỗ trợ tạo khoáng. Tùy vào nhu cầu sử dụng và nguồn nước đầu vào mà bạn có thể chọn mẫu lọc nước có số lõi lọc phù hợp để tiết kiệm chi phí.

    Điều quan trọng nữa cần lưu ý, trên thị trường hiện nay có rất nhiều sản phẩm hàng giả, hàng nhái, gây hại đến sức khỏe của người tiêu dùng. Vì vậy cần kiểm tra xuất xứ và lựa chọn các sản phẩm được sản xuất dưới dây chuyền công nghệ tiên tiến, có nguồn gốc rõ ràng, uy tín để yên tâm sử dụng trong thời gian dài.

    Quy chuẩn nước uống trực tiếp QCVN 6-1:2010/BYT

    Quy chuẩn nước uống trực tiếp QCVN 6-1:2010/BYT là quy chuẩn dành cho nước khoáng thiên nhiên và nước uống đóng chai sử dụng với mục đích giải khát được ban hành 02/06/2010 và được áp dụng vào 01/01/2011. Đây là tiêu chuẩn cao nhất dành cho nước uống trực tiếp hiện nay tại Việt Nam.

    Quy chuẩn QCVN 6-1:2010/BYT sẽ kiểm soát 21 chỉ tiêu hóa lý và 5 chỉ tiêu vi sinh bắt buộc. Các chỉ tiêu hóa lý có thể kể đến như Asen, Amoni, Chì, Xyanua, Thủy ngân, chất nhiễm xạ… Các chỉ tiêu vi sinh có thể kể đến như E.Coli, Coliform…Nước đạt tiêu chuẩn này phải là nước đã được làm tinh sạch các thành phần độc hại như asen, nitrit, mangan, vi sinh vật có hại…

    Khi lựa chọn các sản phẩm nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai, các sản phẩm máy lọc nước, bạn cần xem sản phẩm có được chứng nhận đạt chuẩn QCVN 6-1:2010/BYT hay không. Trường hợp, sản phẩm đạt chứng nhận quy chuẩn thì bạn có thể yên tâm sử dụng nguồn nước đó để uống trực tiếp.

    Quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước ăn uống QCVN 01:2009/BYT

    Quy chuẩn QCVN 01:2009/BYT quy định mức giới hạn các chỉ tiêu chất lượng đối với nước dùng để ăn uống, nước dùng cho các cơ sở để chế biến thực phẩm được Bộ Y tế ban hành ngày 17/06/2009 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/12/2009.

    QCVN 01:2009/BYT là Quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước ăn uống: Quy chuẩn về chất lượng nước ăn uống, dùng cho các cơ sở chế biến thực phẩm. Áp dụng cho các hộ gia đình, cá nhân, cơ quan, tổ chức khai thác, kinh doanh nước cho mục đích sinh hoạt. Đây cũng là tiêu chuẩn của nước đầu vào để sản xuất các loại nước uống đóng chai.

    Quy trình đánh giá máy lọc nước theo hướng dẫn chính thức của WHO và UNICEF, được công nhận ISO 9001:2010 bởi Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Bộ Khoa học và Công nghệ cấp.

    Để một sản phẩm máy lọc nước được cấp 2 chứng nhận này phải trải qua quy trình xét nghiệm nghiêm ngặt, kỹ càng và giám sát chặt chẽ.

    Vân Thảo (T/h)
    https://vietq.vn/cach-lua-chon-cong-nghe-may-loc-nuoc-pho-bien-hien-nay-d221776.html

    Những tác động nguy hiểm của thực phẩm siêu chế biến đối với trẻ em

    Một nghiên cứu mới đây chỉ ra rằng, những thực phẩm siêu chế biến mà những đứa trẻ đang ăn vào người có thể khiến các em có nguy cơ mắc nhiều vấn đề về tim mạch như đau tim, đột qụy và tiểu đường trong quãng sau của cuộc đời.

    Thực phẩm chế biến sẵn, đặc biệt là thực phẩm siêu chế biến đang có xu hướng phổ biến trong những năm gần đây. Khác với thực phẩm chế biến sẵn, thực phẩm siêu chế biến là những thực phẩm được làm từ các thành phần bổ sung như đường, muối, chất béo, màu nhân tạo hoặc chất bảo quản.

    Hiểu một cách đơn giản, thực phẩm đã qua chế biến là những thực phẩm đã bị thay đổi so với trạng thái tự nhiên của chúng bằng nhiều cách như: rửa, đóng hộp, đông lạnh hay thêm nguyên liệu vào chúng. Thực phẩm siêu chế biến còn tiến xa hơn một bước: Chúng được làm chủ yếu từ các chất chiết xuất từ thực phẩm, ví dụ như chất béo, tinh bột, đường bổ sung và chất béo hydro hóa. Thực phẩm siêu chế biến thường được thêm nhiều hóa chất (chất tạo màu, chất tạo ngọt, chất bảo quản và chất nhũ hóa). Quá trình này giúp thực phẩm có hạn sử dụng lâu hơn, tiện lợi hơn và hương vị cũng dễ ăn hơn.

    Theo ông Stuart Berger, bác sĩ tim mạch trẻ em, đồng thời là Trưởng Khoa Tim mạch tại Học viên Nhi khoa Mỹ, cho biết: “Một trong những điều quan trọng nhất chúng ta cần phải tìm hiểu là các loại bệnh đến từ những hoạt động thực hiện khi còn nhỏ nhưng lại gây hậu quả khi ta trưởng thành”.

    Nghiên cứu này, vừa được công bố trên mạng tin khoa học JAMA Network Open, đã phân tích dữ liệu thu thập trên hơn 1.400 trẻ em, có độ tuổi từ 3 đến 6. Những đứa trẻ được tuyển chọn từ các trường học thuộc bảy thành phố tại Tây Ban Nha. Theo nghiên cứu, những người chăm sóc cho những đứa trẻ đã trực tiếp gặp gỡ nhóm nghiên cứu và hoàn thành bảng câu hỏi nhân khẩu học về những hoạt động thể chất, cũng như lượng thức ăn các em tiêu thụ tại nhà trong 3 năm (từ 2019 đến 2022.).

    Các nhà khoa học đã chia dữ liệu thu được thành ba nhóm dựa trên lượng thực phẩm được chế biến sẵn mà những đứa trẻ đã tiêu thụ. Nghiên cứu cho thấy nhóm trẻ tiêu thụ nhiều thực phẩm siêu chế biến nhất nhiều khả năng có các yếu tố rủi ro cao như chỉ số trọng lượng cơ thể lớn, huyết áp cao và vòng eo cũng lớn hơn các bạn.

    Theo Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Quốc (FAO), thực phẩm siêu chế biến là những thực phẩm có chứa các thành phần không được sử dụng hoặc ít khi sử dụng trong nhà bếp. Đây cũng có thể là thực phẩm được thêm các loại chất phụ gia có chức năng làm cho sản phẩm cuối trở nên ngon miệng hoặc hấp dẫn hơn.


    Ảnh minh họa

    Những thành phần, chất phụ gia đó thường được tìm thấy trong nước ngọt, khoai tây chiên, gói súp trong mì gói hay kem. Chúng có thể chứa chất bảo quản để chống nấm mốc hoặc vi khuẩn, màu nhân tạo, chất nhũ hóa để ngăn sự phân tách, hay chỉ đơn giản là các loại đường, muối và chất béo riêng để làm thực phẩm hấp dẫn hơn.

    So với mặt bằng chung của thế giới, người Mỹ tiêu thụ khá nhiều thực phẩm siêu chế biến. Trong một nghiên cứu được công bố vào đầu tháng 5 năm nay, các nhà khoa học thấy rằng ngay cả với những người Mỹ ít ăn đồ siêu chế biến nhất cũng tiêu thụ trung bình 3 khẩu phần một ngày. Nhóm nhiều nhất tiêu thụ tới 7 khẩu phần 1 ngày.

    Bác sĩ Berger cho biết nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những tác động tiêu cực từ thực phẩm siêu chế biến đến sức khỏe của người trưởng thành. Nhưng nghiên cứu mới nhất là công trình đầu tiên cho thấy tác động lâu dài của chúng với con người, từ khi còn là đứa trẻ cho tới khi trưởng thành. Berger cho biết thêm rằng, nghiên cứu mới chủ yếu chỉ mang tính chất quan sát, nghĩa là dù các nhà nghiên cứu có thể xác định được mối quan hệ giữa lượng thực phẩm siêu chế biến mà những đứa trẻ đã tiêu thụ với sức khỏe của chúng, họ không thể đưa ra kết luận chắc chắn về mối quan hệ.

    Nhưng điều quan trọng là nghiên cứu nhắc nhở chúng ta phải quan tâm tới việc quản lý lượng thực phẩm siêu chế biến trẻ tiêu thụ, bởi nó có thể gây ảnh hưởng tới cuộc đời về sau của trẻ. Berger chỉ ra rằng việc thay đổi chế độ ăn của trẻ, theo hướng tránh xa khỏi thực phẩm siêu chế biến và nghiêng về những loại thực phẩm tự nhiên hơn, sẽ dễ thực hiện hơn khi các em còn nhỏ.

    Vấn đề nằm ở chỗ việc né tránh tiêu thụ các đồ ăn siêu chế biến lại không phải là điều dễ thực hiện với tất cả mọi người. Nghiên cứu cho thấy những đứa trẻ tiêu thụ lượng thực phẩm siêu chế biến lớn thường là con của những người mẹ khá trẻ, bản thân họ cũng có trọng lượng cơ thể lớn, có trình độ học vấn thấp và tình trạng việc làm cũng ở mức thấp.

    Ngoài ra tại những nơi khó tiếp cận với thực phẩm tươi sống, thực phẩm siêu chế biến trở thành lựa chọn dễ dàng và rẻ hơn nhiều. Thực phẩm siêu chế biến có đặc điểm cực kỳ tiện lợi, khiến người ta muốn dùng chúng để ăn. Ngoài ra, do thực phẩm siêu chế biến chứa đầy các loại hóa chất, hương liệu, gia vị, muối đường và bất cứ thứ gì khiến chúng trở nên hấp dẫn nên chúng cũng có khả năng “gây nghiện” cho người tiêu thụ.

    Bác sĩ Andrew Freeman, một chuyên gia bệnh tim mạch tại Trung tâm y tế National Jewish ở Denver, nhấn mạnh rằng việc cho trẻ ăn thực phẩm siêu chế biến mà không cung cấp trái cây và rau quả tươi sẽ khiến các em gặp nhiều vấn đề khi đã trưởng thành.

    Bác sĩ Berger cũng cho rằng việc bổ sung các loại thực phẩm có nhiều dưỡng chất và tăng cường hoạt động thể chất là hai yếu tố rất quan trọng cho trẻ. “Nếu có thể làm điều gì đó từ sớm để tạo ra một lối sống lành mạnh thì khả năng cao bạn sẽ loại bỏ được hết các bệnh do chuyển hóa xuất hiện sau này trong cuộc sống như tiểu đường, béo phì, các biến chứng liên quan đến tiểu đường hay béo phì”, BS. Berger nói.

    Khánh Mai (t/h)
    https://vietq.vn/nhung-tac-dong-nguy-hiem-cua-thuc-pham-sieu-che-bien-doi-voi-tre-em-d221748.html

    Chuyên gia chỉ ra những khí độc sinh ra từ đám cháy có thể gây tử vong

    Tiến sĩ Khuất Quang Sơn, Giảng viên hóa học, Đại học Phòng cháy Chữa cháy (Hà Nội), cho biết trong đám cháy có rất nhiều loại khí độc sinh ra từ khói như CO, CO2, C2H3CHO, HCHO, HCl…

    Tiến sĩ Khuất Quang Sơn, Giảng viên hóa học, Đại học Phòng cháy Chữa cháy (Hà Nội), cho biết trong đám cháy nồng độ CO, CO2 gia tăng và nồng độ O2 giảm là nguyên nhân chính khiến nạn nhân tử vong bởi nguyên nhân độc, ngạt khí.

    Bác sĩ Nguyễn Thái Ngọc Minh, Khoa Hồi sức Cấp cứu, Bệnh viện Bỏng Quốc gia Lê Hữu Trác cũng giải thích, mỗi đám cháy tạo ra nhiều loại khói độc riêng tùy thuộc các vật liệu độc hại có tại hiện trường. Chẳng hạn, vải, quần áo, chăn màn cháy có thể tạo ra khí hydrogen chloride, phosphagen; xăm, lốp xe, đồ dân dụng cháy hình thành khí sulfur dioxide; vật dụng trong bếp tạo khí hydrogen cyanide, amonia, hydrogen sulphide. Tuy nhiên, khi đốt cháy, hầu như tất cả vật liệu đều tạo ra khí độc phổ biến nhất là CO, CO2.

    CO là một loại khí độc không màu, không mùi, không vị nhưng rất nguy hiểm. Ban đầu, khí CO không gây khó chịu nên rất khó phát hiện. Khí độc này thường gây các triệu chứng thần kinh. Ở mức độ nhẹ, việc nhiễm độc có thể gây cảm giác đau đầu, buồn nôn, nôn ói. Mức độ cao hơn nữa là tình trạng khó tập trung, hoa mắt, lờ mờ, lú lẫn. Nếu không ra khỏi vùng khí độc, nạn nhân có thể khó thở, đau ngực, hôn mê, ức chế thần kinh trung ương gây ngưng thở.


    Khí độc sinh ra từ đám cháy rất nguy hiểm có thể gây tử vong nhanh chóng nếu không thoát ra kịp. Ảnh minh họa

    Ngoài ra, khí CO còn ngấm vào máu, chiếm chỗ của khí oxy để gắn vào hồng cầu, khiến máu đến mô bị thiếu oxy, từ đó gây tổn thương các cơ quan như hủy cơ, suy thận, gan… “Lúc này, bệnh nhân bị bỏng kết hợp hít phải khí độc, nguy cơ tử vong lên đến 90%”, bác sĩ nói.

    Trong không gian kín, cái chết do ngộ độc khí diễn ra nhanh hơn, chỉ trong vài phút, theo các bác sĩ. Nguyên nhân là khí oxy cạn nhanh hơn, trong khi khí CO, CO2 tăng nhanh. Theo đó, nồng độ CO trên 0,01% bắt đầu gây độc; đạt 1,28% sẽ khiến nạn nhân tử vong trong chưa đầy ba phút.

    Hiệp hội Chống Hỏa hoạn Quốc gia Mỹ cảnh báo khói trong đám cháy gây chết người do các hạt nhỏ không bị đốt cháy, bị đốt cháy một phần hoặc hoàn toàn rất nhỏ đến mức vượt qua bộ lọc của hệ hô hấp để tới phổi. Một số hạt rất độc trong khi những loại khác gây khó chịu cho mắt và hệ tiêu hóa. Các loại hơi giống sương mù đầu độc cơ thể nếu được hít hoặc thấm qua da.

    Ngoài ra, hydro xyanua xuất hiện khi nhựa bị đốt cản trở tế bào hô hấp. Đồ gia dụng sử dụng vật liệu vinyl nếu cháy sinh ra phosgene – khí này ở mức độ thấp gây ngứa mắt, viêm họng, còn ở mức độ cao gây sưng phổi, tử vong.

    Theo PGS.TS Nguyễn Văn Chi – Khoa Cấp cứu A9, Bệnh viện Bạch Mai, có 2 nhóm tổn thương lớn sau vụ cháy. Nhóm thứ nhất tổn thương do ngộ độc khi hít phải lượng khói lớn, với nhiều khí độc CO và có thể có Cyanua.

    Bác sĩ khuyến cáo khi có hỏa hoạn, cần loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng càng sớm càng tốt, như đưa nạn nhân ra khỏi đám cháy, cởi hoặc cắt bỏ quần áo bị cháy hay thấm đẫm nước sôi. Tháo nhẫn hoặc đồng hồ trước khi phần bỏng sưng nề. Sau đó, đặt nạn nhân nơi an toàn, thoáng, cao ráo để có thể thực hiện cứu chữa sơ bộ ban đầu hiệu quả.

    Người đang ở trong đám cháy nên dùng khăn thấm nước che kín miệng và mũi lọc không khí khi hít thở. Tuyệt đối không trốn trong không gian kín, bởi nguy cơ ngạt khí cao và khiến tử vong nhanh hơn.

    Trường hợp bị bỏng, nạn nhân cần được ngâm rửa bằng nước mát càng sớm càng tốt, tốt nhất trong 30-60 phút sau khi bỏng. Che phủ vùng bỏng bằng vật liệu sạch như gạc y tế, khăn mặt, khăn tay, vải màn sạch. Không bôi bất kỳ chất gì vào vùng bỏng khi chưa rửa sạch. Sau đó nhanh chóng vận chuyển nạn nhân tới cơ sở y tế gần nhất.

    Trường hợp bỏng kết hợp với chấn thương, gãy xương, cần cố định tạm thời vùng chấn thương và xương bị gãy trước khi vận chuyển. Trong quá trình tới viện, nếu nạn nhân thở yếu hoặc bất tỉnh, nên hồi sức cấp cứu bằng cách hà hơi thổi ngạt.

    Đề cập đến vấn đề này, bác sĩ Nguyễn Huy Hoàng – Trung tâm Oxy cao áp Việt – Nga, Bộ Quốc phòng cho biết, về mặt khoa học, cách chui vào không gian kín như tủ quần áo hay nhà vệ sinh không phải là tối ưu, thậm chí là phản khoa học.

    Bác sĩ Hoàng phân tích, trong phòng kín, dù có xả nước lạnh hay quạt thông gió thì dưỡng khí sẽ mất dần sau khi bị các loại khí độc như CO, HCN, CO2… len vào, xâm chiếm không gian của dưỡng khí.

    Nguy cơ tử vong do thiếu dưỡng khí, phổi có nguy cơ hít phải luồng khí độc như CO, HCN, CO2… và hơi nóng, khiến cơ thể bị tổn thương nghiêm trọng bởi khí độc và do bỏng niêm mạc đường hô hấp. Nạn nhân bị ngạt khí độc nhanh hơn trước khi bị ảnh hưởng bởi nhiệt độ.

    Theo bác sĩ, trong trường hợp đám cháy được dập tắt nhanh chóng, hoặc khí độc chưa xâm lấn quá nhiều, không gây thiếu oxy, không còn cách nào khác để thoát nạn. Đây có thể là một cách kéo dài thời gian sống sót, hy vọng được cứu sống. Những người sống sót bằng cách này thật sự rất may mắn vì sớm được cứu bởi nếu thời gian cháy lâu thì việc này càng nguy hiểm.

    Đồng thời, bác sĩ lưu ý, khi xảy ra sự cố cháy, cách phù hợp vẫn là khom lưng, ngồi hoặc bò sát dưới sàn nhà, do đây là vùng không khí có chứa ít khí độc hơn. Đồng thời tẩm khăn/vải ướt che mũi, miệng (trừ phần mắt) để có thể hạn chế tối đa lượng khí độc vào phổi.

    “Người dân nên chạy ra ban công, nơi thoáng khí, nếu không xuống được ngay thì nên dựng một tấm mái để nấp dưới đó, khí độc trong nhà bay ra sẽ bay lên cao, vượt lên mái. Ví dụ dùng một tấm đệm gác chéo tạo hình tam giác để người chui xuống dưới” – bác sĩ Hoàng khuyến cáo.

    An Dương (T/h)
    https://vietq.vn/nhung-khi-doc-sinh-ra-tu-dam-chay-nguy-hiem-the-nao-d221736.html

    Chuyên gia chỉ cách loại bỏ thuốc bảo vệ thực vật trên rau quả trước khi ăn

    Theo các chuyên gia dinh dưỡng, để loại bỏ thuốc BVTV trên rau quả trước khi ăn người tiêu dùng có thể sử dụng nhiều phương pháp mang lại hiệu quả đáng kể.

    Trong khi trái cây và rau quả rất cần thiết cho chế độ ăn uống lành mạnh thì điều lo ngại là dư lượng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV). Mặc dù không thể loại bỏ hoàn toàn nhưng một số phương pháp hiệu quả có thể giúp giảm đáng kể sự hiện diện của thuốc BVTV trên nông sản.

    Giáo sư Marvin Pritts, từ Khoa Trồng trọt, Đại học Cornell (Mỹ) cho biết, rửa nước sạch bên ngoài không chỉ làm sạch bụi bẩn, sâu bọ và vi khuẩn, mà còn làm giảm dư lượng thuốc BVTV.

    Giáo sư Pritts cho biết, đầu tiên nên chọn những thực phẩm ít bị nhiễm thuốc trừ sâu hơn như bơ, xoài, cà rốt… Sau đó, rửa và gọt vỏ có thể giúp giảm phơi nhiễm.

    Nghiên cứu năm 2000 cho thấy rửa rau quả có thể loại bỏ 9 trong số 12 loại thuốc trừ sâu. Và một nghiên cứu khác cũng cho thấy nước có hiệu quả loại bỏ thuốc trừ sâu tương tự như sử dụng các chất tẩy rửa khác.

    Các nhà nghiên cứu khoa học và an toàn thực phẩm từ Đại học bang Colorado (Mỹ) cho biết: Rửa trái cây và rau quả không chỉ giúp loại bỏ bụi bẩn, vi khuẩn và sâu bệnh cứng đầu mà còn giúp loại bỏ dư lượng thuốc trừ sâu. Sử dụng các hóa chất khác không hiệu quả hơn nhiều trong việc làm sạch sản phẩm. Ngoài ra, trái cây và rau quả có khả năng hấp thụ những hóa chất này trong lúc rửa và có thể gây hại.


    Rửa rau quả bằng nước là phương pháp loại trừ thuốc BVTV hiệu quả. Ảnh minh họa

    Trung tâm Kiểm soát dịch bệnh Mỹ khuyến nghị không nên sử dụng nước rửa trái cây và rau quả, xà phòng hoặc thuốc tẩy. Cách tốt nhất là rửa dưới vòi nước chảy. Nếu là rau quả mềm, có thể dùng tay lau nhẹ bề mặt khi nước chảy qua hoặc nếu là trái cây cứng, có thể dùng dụng cụ chà rửa rau củ. Sau đó, ngâm nước một lúc. Ở giai đoạn này, có thể thêm giấm hoặc baking soda, theo Daily Mail.

    Người tiêu dùng cũng có thể ngâm giấm. Giấm có khả năng phân hủy dư lượng thuốc trừ sâu, giúp trái cây và rau củ sạch hơn và an toàn hơn để ăn. Một số nghiên cứu đã phát hiện ngâm rau trong giấm từ 10 – 15 phút sẽ làm giảm lượng vi khuẩn trên bề mặt sản phẩm. Hoặc ngâm baking soda có khả năng phá vỡ các phân tử thuốc trừ sâu và giúp rửa trôi chúng, giúp nông sản sạch và an toàn hơn.

    Nhiều loại thuốc BVTV tập trung trên bề mặt thực phẩm nên gọt vỏ có thể loại bỏ một phần lớn dư lượng này. Tuy nhiên, gọt vỏ cũng có thể loại bỏ một số chất dinh dưỡng và chất xơ.

    Chuyên gia chế độ ăn uống hữu cơ Wang Mingyong của Đại học Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh, Trung Quốc cũng chia sẻ, các loại rau lá xanh có nhiều khả năng giữ lại đạm nitrat (NO3) nhất. Các nghiên cứu đã phát hiện ra ngâm nửa kg rau lá với 5-8 lít nước ấm trong 10 phút (nhiệt độ nước khoảng 42-50°C) có thể loại bỏ hơn 50% lượng nitrat.

    Đối với một số loại rau quả, thuốc BVTV sẽ bay hơi trong không khí sau một thời gian phơi nắng. Ví dụ hành tây, bí ngô, cà rốt, đu đủ có thể để ở nhiệt độ phòng từ hai đến ba ngày, nhưng không được đặt trực tiếp vào tủ lạnh.

    Theo nghiên cứu, khi rau và trái cây tiếp xúc với ánh sáng mặt trời trong 5 phút, 60% lượng thuốc BVTV organochlorine còn sót lại sẽ bị mất đi. Khi đem cà rốt ra ánh nắng, tia cực tím có thể phân hủy cấu trúc hóa học của thuốc trừ sâu, làm giảm độc tính ban đầu, nhiệt độ càng cao thuốc trừ sâu bay hơi càng nhanh.

    Chần qua rau quả cũng là một phương pháp loại trừ thuốc BVTV hiệu quả. Ngoài tác dụng diệt khuẩn, nhiệt độ cao còn làm bay hơi và phân hủy hầu hết các loại thuốc BVTV. Đặc biệt đối với những loại cây trồng dễ phun thuốc toàn thân, tốt nhất nên cắt nhỏ rồi chần khoảng một phút sau khi rửa sạch để thuốc BVTV tan hết. Nên nhớ bỏ nước chần này và cần mở vung cho thuốc BVTV bay hơi theo hơi nước.

    Hoặc rửa bằng nước ngâm rửa thực phẩm enzyme thân thiện với môi trường hay nước rửa rau củ quả tự nhiên. Rửa sạch rau một hoặc hai lần bằng nước để loại bỏ vi trùng, trứng côn trùng và thuốc BVTV còn sót lại trên rau.

    Yêu cầu về hàm lượng hoạt chất của thuốc bảo vệ thực vật theo Quy chuẩn QCVN 01-188:2018/BNNPTNT

    Quy chuẩn QCVN 01-188:2018/BNNPTNT do Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành theo Thông tư 12/2018/TT-BNNPTNT ngày 05 tháng 10 năm 2018.

    Theo đó, yêu cầu về hàm lượng hoạt chất của thuốc BVTV được xác định tại Quy chuẩn QCVN 01-188:2018/BNNPTNT như sau:

    Hàm lượng hoạt chất tối thiểu của thuốc kỹ thuật phải được đăng ký không nhỏ hơn quy định hiện hành của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Thông tư ban hành Danh mục thuốc BVTV được phép sử dụng tại Việt Nam và khi xác định, hàm lượng trung bình không được nhỏ hơn mức hàm lượng tối thiểu đã đăng ký.

    Trường hợp hàm lượng hoạt chất tối thiểu của thuốc kỹ thuật chưa có trong quy định hiện hành thì phải đăng ký, được Cục Bảo vệ thực vật chấp thuận và khi xác định, hàm lượng trung bình không nhỏ hơn mức hàm lượng tối thiểu đã đăng ký.

    Hàm lượng của từng hoạt chất có trong thuốc thành phẩm tính theo % khối lượng hoặc g/kg hoặc g/l ở (20 ± 2) °C ở các dạng thuốc BVTV đã được đăng ký và khi xác định, hàm lượng trung bình phải phù hợp với quy định.

    Đối với các chỉ tiêu vi sinh vật có trong các dạng thuốc BVTV thành phẩm, mật độ vi sinh vật sống phải được đăng ký và khi xác định, mật độ trung bình không nhỏ hơn 10 lần mật độ đã đăng ký.

    Đối với các thuốc BVTV sinh học có nguồn gốc từ thực vật, hàm lượng hoạt chất phải được đăng ký và khi xác định, hàm lượng hoạt chất trung bình tuân theo mức sai lệch cho phép (bảng 1) ở giá trị nhỏ và không giới hạn ở giá trị lớn.

    Vân Thảo (T/h)
    https://vietq.vn/chuyen-gia-chi-cach-loai-bo-thuoc-tru-sau-tren-rau-qua-truoc-khi-an-d221690.html

    Nghiên cứu mới phát hiện các hạt nano từ virus thực vật có tiềm năng chặn ung thư di căn

    Mới đây các nhà khoa học Mỹ đã đạt được kết quả ngoài mong đợi khi nghiên cứu phương pháp trị ung thư vú, ruột kết và buồng trứng từ các hạt nano thu được từ một loại virus.

    Công bố các phát hiện trên tạp chí khoa học Advanced Science, nhóm tác giả từ Trường Đại học California ở San Diego (UCSD – Mỹ) xác định một loại virus mang tên Vigna unguiculata có tiềm năng trong việc chống lại một số bệnh ung thư. Vigna unguiculata là virus thực vật thường tấn công cây đậu mắt đen (còn gọi là đậu trắng mắt đen).

    Theo Science Alert, trong thí nghiệm của nhóm UCSD, các hạt nano thu được từ virus này đã tăng tỉ lệ sống sót và ngăn chặn sự phát triển khối u một cách có hệ thống ở những con chuột mắc nhiều loại ung thư khác nhau, bao gồm ung thư vú, ruột kết và ung thư buồng trứng.

    Ngoài ra, một nhóm chuột khác đã trải qua phẫu trị cắt bỏ khối u cũng nhận được sự cải thiện đáng kể. Virus này không tấn công trực tiếp vào tế bào ung thư ở chuột mà hoạt động như một dạng liệu pháp miễn dịch, giúp tăng cường sức mạnh tự nhiên của cơ thể trong việc tiêu diệt các tế bào bệnh.

    Vigna unguiculata vốn không có khả năng lây nhiễm sang động vật có vú, tức chúng ta không thể bị bệnh như những cây đậu mắt đen bị nhiễm nó.

    Nhưng nếu virus được đưa vào cơ thể, hệ thống miễn dịch của chuột vẫn có xu hướng xác định chúng là yếu tố ngoại lai, nên nhanh chóng phản ứng và sự kích hoạt miễn dịch này đã đồng thời tác động đến bệnh ung thư.


    Sử dụng các hạt nano từ virus mang tên Vigna unguiculata để chặn đứng ung thư di căn. Ảnh minh họa

    Các hạt nano từ virus này trước đây đã cho thấy nhiều hứa hẹn trong việc thúc đẩy phản ứng miễn dịch khi tiêm vào các mẫu khối u ở người trong phòng thí nghiệm.

    Cho dù vẫn còn cần bước thí nghiệm lâm sàng (trực tiếp trên người), nhưng sự thành công tiếp theo ở thử nghiệm động vật đã cho thấy tiềm năng đưa nó thành một liệu pháp thực tế rất lớn.

    Với bước nghiên cứu mới này, hạt nano không nhất thiết phải được tiêm trực tiếp vào khối u để thành công mà còn có thể được phân phối một cách có hệ thống vào cơ thể theo những con đường dễ dàng hơn với con người. Các kết quả cũng cho thấy phương pháp điều trị này có thể giúp ngăn ngừa ung thư di căn và tái phát.

    Được biết, công nghệ nano (Nanotechnology) là việc sử dụng vật chất ở quy mô nguyên tử, phân tử và siêu phân tử cho các mục đích công nghiệp. Hay có thể hiểu đơn giản là sự phân tích, điều khiển và chế tạo các vật chất bằng cách đưa nó về hình dạng và kích thước từ 1 đến 100 nanomet.

    Công nghệ nano chỉ mới thực sự phát triển và phổ biến rộng rãi từ khi cuộc cách mạng 4.0 bắt đầu. Tính đến hiện tại, nó đã góp một phần không nhỏ đến việc phục vụ con người. Điển hình là khâu sản xuất các mặt hàng thủy tinh, gốm, sứ,… đều có sự góp mặt của công nghệ này. Công nghệ nano hiện được coi là ngành công nghệ hàng đầu về khoa học – kĩ thuật trên thế giới và hứa hẹn sẽ ngày một phát triển trong tương lai.

    Loại vật liệu này tồn tại ở nhiều dạng khác nhau: Rắn, lỏng và cả ở thể khí. Tên của vật liệu nano còn có thể đặc theo hình dáng vật liệu, bao gồm vật liệu nano không chiều (đám nano, hạt nano), vật liệu nano một chiều (dây nano, ống nano), vật liệu nano hai chiều (màng mỏng), ngoài ra còn có vật liệu mang cấu trúc nano hay nanocomposite.

    Công nghệ nano cho phép thao tác và sử dụng vật liệu ở tầm phân tử, tạo ra và làm tăng tính chất đặc biệt của vật liệu nhưng lại giảm kích thước của các thiết bị, hệ thống đến kích thước cực nhỏ. Đây được xem là cuộc cách mạng công nghiệp, thúc đẩy sự phát triển trong mọi lĩnh vực đặc biệt là y sinh học, năng lượng, môi trường, công nghệ thông tin, quân sự… Vì thế có thể coi công nghệ này đã và đang tác động đến toàn xã hội.

    Nền công nghệ nano còn góp phần nâng cao chất lượng của pin năng lượng mặt trời, tăng tính hiệu quả và dự trữ của pin và siêu tụ điện, tạo ra chất siêu dẫn làm dây dẫn điện để vận chuyển điện đường dài…

    Vân Thảo (T/h)
    https://vietq.vn/nghien-cuu-moi-phat-hien-cac-hat-nano-tu-virus-thuc-vat-co-tiem-nang-chan-ung-thu-di-can-d221679.html

    Cách kiểm tra lò vi sóng có bị rò rỉ bức xạ hay không bằng điện thoại đơn giản

    Lò vi sóng là sản phẩm thiết yếu được nhiều gia đình sử dụng tuy nhiên sản phẩm này cũng tiềm ẩn bức xạ nguy hiểm. Theo các chuyên gia người tiêu dùng có thể kiểm tra bằng cách dùng điện thoại đơn giản.

    Chúng ta đang được bao quanh bởi các thiết bị điện tử phát ra bức xạ trường điện từ – EMF. Đây là một dạng bức xạ không ion hóa (tần số nằm ở khoảng giữa sóng vi ba và sóng vô tuyến), tuy vô hình nhưng có thể đo được bằng máy đo EMF cầm tay.

    Các nguồn EMF phổ biến trong nhà bao gồm tivi, điện thoại di động, máy tính, đồng hồ thông minh, wifi, lò vi sóng, đường dây điện, dây điện… Ngày càng có nhiều nghiên cứu khoa học cho thấy mối liên hệ giữa bức xạ không dây với những vấn đề nghiêm trọng của sức khỏe con người, như chứng mất trí nhớ, rối loạn giấc ngủ, đau đầu, ung thư…

    Trong đó lò vi sóng là một thiết bị cần của mọi nhà, giúp có một bữa ăn nhanh gọn. Nhưng theo các chuyên gia công nghệ của Công ty cổ phần Thế Giới Di Động sử dụng lâu ngày, lò vi sóng có thể bị rò rỉ bức xạ nguy hiểm.


    Dùng điện thoại để kiểm tra lò vi sóng có bị rò rỉ bức xạ hay không rất đơn giản. Ảnh minh họa

    Lò vi sóng là một thiết bị điện tử có những tia bức xạ siêu vi – phát ra từ các phân tử để làm nóng thức ăn, dù chúng vô hại đối với những miếng thịt, rau củ nhưng lại hoàn toàn không tốt cho con người khi tiếp xúc phải.

    Các bức xạ này dễ khiến suy giảm thị lực, ảnh hưởng đến tế bào máu. Người bệnh tim khi đứng gần sẽ khiến nhịp tim thay đổi,… Đặc biệt là với trẻ nhỏ, tuyệt đối không cho lại gần lò vi sóng khi đang lò đang hoạt động.

    Hầu hết các thiết bị như lò vi sóng đều phải trải qua kiểm tra quá trình nghiêm ngặt trước khi đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng, thời gian hoặc các tác nhân vật lý có thể khiến lò vi sóng rò rỉ các bức xạ nguy hiểm này.

    Để kiểm tra rò rỉ bức xạ của lò vi sóng đầu tiên nên đặt điện thoại vào lò vi sóng và đóng cửa (không bật lò). Sau đó dùng một điện thoại khác gọi vào chiếc điện thoại đặt bên trong lò.

    Nếu chiếc điện thoại trong lò không đổ chuông thì lò vi sóng còn tốt và có thể hoàn toàn yên tâm. Còn ngược lại, nếu chiếc điện thoại trong lò đổ chuông hãy cân nhắc mua một chiếc lò vi sóng mới để tránh những hậu quả đáng tiếc xảy ra cho gia đình. Nguyên nhân là vì lò vi sóng có tác dụng như một lồng cách điện nó sẽ không cho sóng điện từ lọt vào, trừ khi lò bị rò rỉ bức xạ.

    Đối chứng qua cách làm trên, khi điện thoại bên trong lò reo lên, có nghĩa là sóng điện từ của chiếc điện thoại sử dụng để gọi đã đi vào bên trong lò. Lúc này chứng tỏ lò vi sóng đã bị rò rỉ bức xạ ra bên ngoài.

    Như vậy, lò vi sóng với những công dụng có ích với cuộc sống, nhưng bên cạnh đó cũng có những mối nguy hại, nếu chưa phát hiện kịp thời sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe.

    Tiêu chuẩn quốc gia TCVN 13663: 2023 về lò vi sóng gia dụng- hiệu suất năng lượng

    Tiêu chuẩn quốc gia TCVN này do Bộ Khoa học và Công nghệ công bố quy định mức hiệu suất năng lượng tối thiểu và phương pháp xác định hiệu suất năng lượng của lò vi sóng dùng cho mục đích gia dụng, có dung tích và bằng 30L.

    Theo đó, yêu cầu về hiệu suất năng lượng ở chế độ chờ Tiêu chuẩn này hướng dẫn cần được xác định theo TCVN 10152 (IEC 62301). Mức tiêu thụ năng lượng lớn nhất của lò vi sóng ở chế độ chờ phải nhỏ hơn hoặc bằng 1W.

    Các cấp hiệu suất năng lượng của lò vi sóng được quy định: Cấp 1 hiệu suất năng lượng phải nhỏ hơn 45%; cấp 2 ở mức lớn hơn 45% và nhỏ hơn hoặc bằng 53%; cấp 3 ở mức lớn hơn 53% và nhỏ hơn hoặc bằng 58%; cấp 4 ở mức lớn hơn 58% và nhỏ hơn hoặc bằng 65%; cấp 5 ở mức lớn hơn 65%.

    Vân Thảo (T/h)

    https://vietq.vn/cach-don-gian-de-giam-buc-xa-tu-cac-thiet-bi-gia-dung-trong-gia-dinh-d221724.html

    Thuốc giảm cân giá bình dân, chưa tới 130.000 đồng 1 hộp: Thực hư công dụng ra sao?

    Được ví như “Ozempic phiên bản bình dân”, một hình thức giảm cân sử dụng túi nicotin Zyn đang rất nổi tiếng với giới trẻ hiện nay.

    Thông tin từ tờ Hindustan cho biết, xu hướng giảm cân dùng Zyn đang khiến giới trẻ, nhất là thế hệ Gen Z (sinh từ năm 1997 đến 2012), “phát cuồng”. Zyn được cho là giải pháp kinh tế hơn nhưng có hiệu quả không hề thua kém khi so sánh với Ozempic – một loại thuốc giảm cân nổi tiếng.

    Ozempic từng gây sốt do hiệu quả giảm cân vượt trội, đến nỗi có một khoảng thời gian loại thuốc này đã trở nên khan hiếm trên toàn cầu, thậm chí khiến bệnh nhân tiểu đường không có đủ thuốc để điều trị. Làn sóng giảm cân bằng Zyn thực chất bắt nguồn từ một tác dụng phụ của loại thuốc này trong quá trình sử dụng cho cai nghiện thuốc lá.

    Theo đó, túi nicotine Zyn được sử dụng như một phương pháp thay thế cho việc hút thuốc, quá trình này thường khiến người sử dụng sút cân không kiểm soát. Được biết, nicotine trong thuốc Zyn giúp ngăn cảm giác thèm ăn, hạn chế cơn đói, từ đó trực tiếp làm giảm trọng lượng cơ thể.

    Trào lưu mang tên “O-Zyn-pic” bất ngờ tràn ngập các mạng xã hội, sánh ngang với thuốc giảm cân đình đám như Ozempic hay Wegovy, với vô số đánh giá tích cực về hiệu quả giảm cân mà Zyn mang lại từ nhiều tài khoản khác nhau, một vài trong số đó thậm chí còn khẳng định bản thân đã giảm được gần 14 kg.

    Với giá khoảng 5 USD/hộp (tương đương 127.000 VNĐ) và được bày bán phổ biến, Zyn thu hút giới trẻ – những người đang có nhu cầu giảm cân và muốn tìm kiếm thuốc giảm cân tiết kiệm hơn của Ozempic. Nik Bando – một người đang sử dụng Zyn tuyên bố trên tài khoản Instagram có tên “ThiccyFowler” rằng đã giảm được cân nhờ sử dụng loại thuốc trên mỗi khi đói và thừa nhận từ đó đã bị “nghiện” lúc nào không hay.

    Dù Zyn không chứa các thành phần có hại như thuốc lá nhưng khả năng gây nghiện không kém thuốc lá do có chứa một lượng lớn nicotine. Ngoài ra, việc sử dụng nicotine thường xuyên có thể làm tăng nguy cơ mắc các bệnh tim mạch hoặc gây ra các vấn đề về nướu.

    TS. Carolyn Bramante tại Đại học Minnesota, Mỹ bày tỏ lo ngại về việc sử dụng Zyn để giảm cân. Bà lưu ý, các nhà khoa học chưa hiểu rõ cách mà nicotine kiểm soát cơn thèm ăn của người dùng. Bà thông tin thêm: “Thay vì dùng loại thuốc này, hãy tìm tới bác sĩ hoặc chuyên gia uy tín đưa ra liệu trình giảm cân phù hợp và lâu dài”.


    Zyn là loại thuốc thường dùng trong quá trình cai thuốc lá. (Ảnh: Harvard T.H. Chan School of Public Health)

    Hiện nay, trên thị trường có đa dạng loại thuốc giảm cân, từ viên uống, ngậm đến dạng bột hay chất lỏng với đủ mức giá khác nhau, giúp người tiêu dùng dễ dàng có thể tìm mua sản phẩm. Tuy nhiên, theo chuyên gia, không phải loại thuốc giảm cân nào cũng đảm bảo an toàn.

    Thuốc giảm cân thực chất là thuốc gây chán ăn, một số loại làm người uống có cảm giác đầy bụng, đắng miệng, không muốn ăn uống, làm chậm quá trình chuyển hóa thức ăn qua dạ dày, giảm hấp thụ chất béo để nhanh sụt cân… Do đó, việc tự ý sử dụng thuốc giảm cân không theo hướng dẫn có thể dẫn đến tiêu chảy kéo dài, mất nước, hoa mắt chóng mặt, suy nhược cơ thể, ảnh hưởng thần kinh, huyết áp, gây trầm cảm, phải lệ thuộc vào thuốc, ngộ độc, suy thận và nguy hiểm nhất là có thể hạ đường huyết, trụy tim mạch dẫn tới tử vong.

    Theo bác sĩ tại Bệnh viện VinMec, thuốc giảm cân không phải là một loại thần dược, hầu hết đều gây ra một số phản ứng phụ nhất định cho cơ thể. Trong đó, tăng tiết mồ hôi là một trong các phản ứng phụ. Ra nhiều mồ hôi là quá trình mất nước và khoáng chất, không phải là quá trình đốt cháy mỡ thừa. Do đó, trước khi sử dụng bất cứ loại thuốc giảm cân nào cần xem xét kỹ thành phần, xuất xứ và cách sử dụng. Không lạm dụng thuốc hay dùng thuốc kéo dài; sử dụng thuốc luôn phải kèm với chế độ ăn uống, chế độ tập luyện và nghỉ ngơi hợp lý”.

    Theo các chuyên gia sức khỏe, để giúp việc giảm cân đạt hiệu quả, an toàn, tốt nhất chị em nên đi khám để được bác sĩ tư vấn kỹ càng. Bên cạnh đó, chị em nên thiết lập cho mình chế độ ăn uống hợp lý, tránh các thực phẩm cung cấp năng lượng nhiều, kết hợp luyện tập thể dục – thể thao đều đặn. Đặc biệt, không nên mua thuốc giảm cân trôi nổi trên thị trường, không đảm bảo chất lượng, có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe.

    Thanh Hiền (t/h)
    https://vietq.vn/thuoc-giam-can-gia-binh-dan-chua-toi-130000-dong-1-hop-thuc-hu-cong-dung-ra-sao-d221642.html

    Các nước rót cả tỷ USD vào hydro, “mỏ vàng” nhiên liệu mới của tương lai

    0

    Hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ. Thị trường hydro xanh có trị giá 676 triệu USD vào năm 2022 và được dự đoán có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027.

    Nhiên liệu của tương lai thay thế dầu mỏ

    Dầu mỏ được ví như “vàng đen” vì mức độ quan trọng của nhiên liệu này đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, dầu mỏ không phải là nguồn tài nguyên vô hạn và đang đứng trước nguy cơ cạn kiệt. Chính vì vậy, chúng ta buộc phải tìm kiếm những nguồn năng lượng sạch và đem lại hiệu quả kinh tế tốt hơn để thay thế cho dầu mỏ.

    Theo khảo sát của LiveScience, hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ. Hydro có rất nhiều ứng dụng trong cuộc sống như thay thế cho xăng làm nhiên liệu cho động cơ tên lửa và ô tô.

    Ngoài ra, hydro còn được sử dụng trong pin nhiên liệu, cung cấp năng lượng cho động cơ điện, làm nguyên liệu để sản xuất nhiều hợp chất hữu cơ… Sử dụng loại năng lượng này cũng góp phần lớn vào việc giảm ô nhiễm môi trường.


    Hydro đang đứng đầu danh sách những nguồn năng lượng có thể thay thế dầu mỏ (Ảnh: Emerson).

    Với nhiều ứng dụng, hydro đang được kỳ vọng trở thành nguồn nhiên liệu sạch của tương lai và có thể chiếm từ 12% đến 20% nhu cầu năng lượng toàn cầu vào năm 2050.

    Hiện có nhiều loại hydro khác nhau. Trong đó, hydro xám là dạng hydro phổ biến nhất, được tạo ra từ khí methane và hiện chiếm phần lớn sản lượng trên toàn thế giới đạt 90 triệu tấn. Tuy nhiên, hydro xám lại là dạng hydro kém bền vững nhất.

    Hydro xanh được xem là loại khí hydro thương mại thân thiện với môi trường, được tạo ra bằng cách sử dụng năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời, gió, nước… Tuy nhiên, sản xuất loại khí này vẫn ở quy mô nhỏ và tốn kém nhiều chi phí.

    Loại năng lượng này vẫn ở giai đoạn sơ khai nhưng sở hữu tiềm năng phát triển lớn bởi có lượng khí thải carbon rất thấp. Không những vậy hydro xanh còn có nhiều ứng dụng tiềm năng trong việc giảm thiểu khí thải carbon trong các ngành công nghiệp, góp phần hạn chế tác động của biến đổi khí hậu.

    Các chuyên gia trong ngành đánh giá, hydro xanh là giải pháp nhiên liệu sạch. Các chuyên gia dự kiến sản lượng hydro xanh sẽ tăng lên đáng kể trong tương lai khi các nước tập trung đầu tư để giải quyết bài toán năng lượng và vấn đề biến đổi khí hậu.

    “Chìa khóa” trong quá trình chuyển dịch năng lượng

    Lợi ích hàng đầu của việc sử dụng hydro làm nhiên liệu là không phát thải khí CO2. Khi phản ứng với oxy, hydro chỉ tạo ra điện, nước và nhiệt. Bên cạnh đó, hydro cũng tạo ra mật độ năng lượng cao và mở ra tiềm năng sử dụng hydro như một nguồn tài nguyên phục vụ nhu cầu năng lượng lâu dài trong tương lai.

    Hydrogen có hàm lượng năng lượng cao hơn 300% so với xăng, khi được sử dụng trong pin nhiên liệu, “chất thải” duy nhất được tạo ra là nước. Chính vì vậy, các nhà hoạch định chính sách đang xem xét đẩy mạnh đầu tư vào nguồn nhiên liệu này trong cuộc đua đạt mức phát thải ròng bằng 0.

    Không chỉ vậy, hydro còn có tiềm năng lưu trữ lớn. Lượng năng lượng được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo như năng lượng mặt trời và năng lượng gió có thể bị ảnh hưởng do điều kiện thời tiết.


    Nhà máy điện phân tại thành phố Lingen, Đức (Ảnh: RWE)

    Việc chuyển đổi năng lượng tái tạo thành hydro giúp lưu trữ đồng thời giúp ổn định mạng lưới năng lượng. Hydro cũng có thể được lưu trữ trong thời gian dài mà không bị thất thoát như các loại năng lượng khác.

    Theo dữ liệu từ Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), công suất sản xuất hydrogen toàn cầu vào năm 2022 là 95 triệu tấn/năm, tập trung vào công nghiệp và lọc dầu. Theo kịch bản của IEA, sản lượng hydro hàng năm sẽ cần tăng khoảng 350% vào năm 2050, lên 430 triệu tấn/năm.

    Thị trường tỷ USD

    Với tiềm năng phát triển lớn, nhiều nước đang tăng cường đầu tư vào hydro. Thị trường sản xuất hydrogen dự kiến sẽ tăng trưởng với tốc độ hàng năm là 9,2% cho đến năm 2030.

    Theo cơ sở dữ liệu các dự án hydro của IEA, thị trường hydro xanh có trị giá 676 triệu USD vào năm 2022. Các chuyên gia dự đoán con số này có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027.

    Nhờ những tiến bộ về công nghệ điện phân và pin nhiên liệu, việc sản xuất hydro xanh đang dần trở thành nguồn năng lượng của hiện tại và tương lai. Đạo luật Giảm lạm phát (IRA) ở Mỹ cũng đưa ra các khoản trợ cấp để sản xuất hydro xanh và tiếp tục đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của thị trường.

    Theo báo cáo về địa chính trị của Cơ quan Năng lượng tái tạo quốc tế (IRENA), từ năm 2022 đến 2030 sẽ có khoảng 160 tỷ USD được đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo và một nửa trong số đó dành cho hydro xanh.

    IRENA cũng ước tính mức tiêu thụ hydro hàng năm sẽ tăng từ 100 triệu tấn lên mức hơn 600 triệu tấn vào năm 2050. Cơ quan này ước tính quy mô thị trường có thể lên tới khoảng 700 tỷ USD.

    Ông Francesco La Camera, Tổng giám đốc IRENA, từng khẳng định rằng: “Hydro xanh sẽ đa dạng hóa nguồn cung, dẫn đến việc chia sẻ quyền lực cho nhiều bên hơn. Với sự hợp tác quốc tế, thị trường có thể mở rộng hơn nữa”.


    Xưởng đóng tàu Myklebust tại Na Uy đã đóng tàu chạy bằng hydro lớn nhất thế giới (Ảnh: Myklebust).

    Năm 2017, chỉ có Nhật Bản lên kế hoạch đầu tư cho hydro nhưng hiện nay đã có khoảng 40 quốc gia có kế hoạch phát triển loại năng lượng này. Chính phủ các nước và các công ty đã cùng tập hợp để thúc đẩy phát triển nền kinh tế dựa trên hydro.

    Chính phủ Nhật Bản, Hàn Quốc, Anh, Mỹ, Trung Quốc hay Liên minh châu Âu (EU) đều đang xây dựng các chiến lược và dự án sử dụng hydro. Các công ty cũng đang tìm cách phát triển nguồn năng lượng này. Trung tâm hydro xanh công nghiệp đầu tiên trên thế giới đang được xây dựng tại bang Utah (Mỹ) và dự kiến sẽ đi vào hoạt động vào năm 2025.

    Đối với lĩnh vực khai thác mỏ, hydro xanh sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình chuyển đổi sang hệ thống năng lượng tái tạo.

    “Hydro còn nhiều hứa hẹn trong tương lai. Các công ty khai thác mỏ đang tích cực khám phá và thúc đẩy một loạt sáng kiến nhằm ứng dụng hydro xanh trong chiến lược năng lượng và kinh doanh mới của mình”, ông Andrew Wilson, Giám đốc phụ trách Úc và New Zealand của công ty dịch vụ tư vấn dss+ Consulting, chia sẻ với Green Review.

    Tuy nhiên, IEA cho rằng việc khai thác loại tài nguyên này vẫn chưa đủ. IEA cảnh báo nhu cầu năng lượng sẽ sớm đạt đỉnh và kêu gọi các nước, các công ty khai thác hành động nhanh hơn.


    Thị trường hydro xanh có thể đạt 7,3 tỷ USD vào năm 2027 (Ảnh: Track insight).

    Ông Geoffrey Ellis, chuyên gia của Cơ quan Khảo sát Địa chất Mỹ ước tính rằng hiện có hàng chục tỷ tấn hydro trên toàn cầu. Ông cho biết hầu hết các mỏ hydro tự nhiên thường ở rất xa ngoài khơi hoặc nằm rất sâu dưới lòng đất nên sẽ tốn nhiều chi phí để khai thác. Tuy nhiên nếu biết cách khai thác thì nó sẽ mang lại một lượng khí hydro tự nhiên lớn và có giá trị cao.

    Năng lượng tái tạo là trụ cột chính để loại bỏ carbon cho nền kinh tế thế giới. ING kỳ vọng công suất năng lượng tái tạo sẽ tăng trưởng mạnh mẽ hơn nữa trong tương lai. Trong 2 thập kỷ qua, chi phí năng lượng tái tạo đã giảm mạnh và năng lượng tái tạo đang chuyển sang một thị trường rộng lớn hơn. Theo IEA, công suất điện năng lượng tái tạo toàn cầu đã liên tục tăng trưởng mạnh mẽ trong 22 năm qua.

    IEA ước tính rằng thế giới có thể đạt được 4.700 GW công suất năng lượng tái tạo vào cuối năm 2024 so với mức tăng công suất từ hơn 4.100 GW của năm 2023. Cơ quan này cho rằng nếu theo chính sách và điều kiện thị trường dự kiến hiện nay thì công suất năng lượng tái tạo toàn cầu có thể tăng gấp 2,5 lần vào năm 2030.

    Theo Dân trí
    https://petrotimes.vn/cac-nuoc-rot-ca-ty-usd-vao-hydro-mo-vang-nhien-lieu-moi-cua-tuong-lai-711360.html

    Chất nguy hại “ẩn mình” trong vật liệu xây dựng có thể gây ung thư

    Formaldehyde là một hóa chất không màu, dễ cháy, có mùi mạnh, được sử dụng trong vật liệu xây dựng và sản xuất nhiều sản phẩm gia dụng. Tuy nhiên chất này lại tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm cho sức khỏe con người.

    Formaldehyde là một hóa chất không màu, dễ cháy, có mùi mạnh, được sử dụng trong các sản phẩm gỗ ép, chẳng hạn như ván dăm, ván ép và ván sợi; keo và chất kết dính; vải ép vĩnh viễn; lớp phủ sản phẩm giấy; và các vật liệu cách nhiệt nhất định. Ngoài ra, formaldehyde thường được sử dụng như một chất diệt nấm, diệt vi trùng và chất khử trùng công nghiệp và làm chất bảo quản trong các cơ sở giết mổ và phòng thí nghiệm y tế. Formaldehyde cũng xuất hiện tự nhiên trong môi trường. Nó được sản xuất với một lượng nhỏ bởi hầu hết các sinh vật sống như một phần của quá trình trao đổi chất bình thường.

    Khi formaldehyde tồn tại trong không khí ở mức vượt quá 0,1 ppm, một số cá nhân có thể gặp các tác dụng phụ như chảy nước mắt; cảm giác bỏng rát ở mắt, mũi và cổ họng; ho khan; thở khò khè; buồn nôn; và kích ứng da. Một số người rất nhạy cảm với formaldehyde, trong khi những người khác không có phản ứng với mức độ tiếp xúc tương tự.

    Mặc dù những tác động sức khỏe ngắn hạn của việc tiếp xúc với formaldehyde đã được biết đến nhiều, nhưng ít người biết hơn về những ảnh hưởng sức khỏe lâu dài tiềm ẩn của nó.

    Trước đó các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy tiếp xúc với formaldehyde có thể gây ung thư mũi ở chuột. Phát hiện này đã đặt ra câu hỏi liệu tiếp xúc với formaldehyde cũng có thể gây ung thư ở người.

    Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) đã phân loại formaldehyde là chất có thể gây ung thư ở người trong điều kiện phơi nhiễm kéo dài hoặc cao bất thường. Kể từ thời điểm đó, một số nghiên cứu trên người đã gợi ý rằng tiếp xúc với formaldehyde có liên quan đến một số loại ung thư.


    Nhiều nghiên cứu khoa học chứng minh chất formaldehyde là chất gây ung thư ở người. Ảnh minh họa

    Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) phân loại formaldehyde là chất gây ung thư ở người. Chương trình Chất độc Quốc gia, một chương trình liên ngành của Bộ Y tế và Dịch vụ Nhân sinh, đã đặt tên formaldehyde là chất gây ung thư ở người trong Báo cáo lần thứ 12 về các chất gây ung thư.

    Dựa trên cả dữ liệu dịch tễ học từ các nghiên cứu thuần tập và bệnh chứng cũng như dữ liệu thực nghiệm từ nghiên cứu trong phòng thí nghiệm, các nhà điều tra của Viện Ung thư Quốc gia (NCI) Mỹ đã kết luận rằng việc tiếp xúc với formaldehyde có thể gây ra bệnh bạch cầu, đặc biệt là bệnh bạch cầu dòng tủy, ở người.

    Ngoài ra, một số nghiên cứu bệnh chứng, cũng như phân tích nhóm thuần tập công nghiệp lớn của NCI, đã tìm thấy mối liên quan giữa việc tiếp xúc với formaldehyde và ung thư vòm họng, mặc dù một số nghiên cứu khác thì không. Dữ liệu từ quá trình theo dõi kéo dài của nhóm nghiên cứu NCI cho thấy tình trạng dư thừa ung thư vòm họng được quan sát trong báo cáo trước đó vẫn tồn tại.

    Phân tích trước đó của nhóm nghiên cứu NCI cho thấy tỷ lệ tử vong do ung thư phổi ở các công nhân công nghiệp tăng lên so với dân số Mỹ nói chung. Tuy nhiên, tỷ lệ tử vong do ung thư phổi không tăng khi mức độ tiếp xúc với formaldehyde cao hơn. Quan sát này khiến các nhà nghiên cứu kết luận rằng các yếu tố khác ngoài việc tiếp xúc với formaldehyde có thể là nguyên nhân dẫn đến số ca tử vong gia tăng. Dữ liệu gần đây nhất về ung thư phổi từ nghiên cứu thuần tập không tìm thấy bất kỳ mối quan hệ nào giữa việc tiếp xúc với formaldehyde và tỷ lệ tử vong do ung thư phổi.

    Một nghiên cứu do NCI thực hiện đã xem xét 25.619 công nhân trong các ngành công nghiệp có khả năng tiếp xúc với formaldehyde nghề nghiệp và ước tính mức độ phơi nhiễm của mỗi công nhân với hóa chất này trong khi làm việc. Kết quả cho thấy nguy cơ tử vong do bệnh bạch cầu, đặc biệt là bệnh bạch cầu dòng tủy, ở những công nhân tiếp xúc với formaldehyde tăng lên.

    Một nghiên cứu thuần tập trên 11.039 công nhân dệt may do Viện Quốc gia về An toàn và Sức khỏe Nghề nghiệp (NIOSH) thực hiện cũng cho thấy mối liên quan giữa thời gian tiếp xúc với formaldehyde và tử vong do bệnh bạch cầu. Tuy nhiên, các bằng chứng vẫn còn lẫn lộn vì một nghiên cứu thuần tập trên 14.014 công nhân trong ngành công nghiệp của Anh không tìm thấy mối liên hệ nào giữa việc tiếp xúc với formaldehyde và tử vong do bệnh bạch cầu.

    Cần đảm bảo theo quy chuẩn đã ban hành

    Ngày 01/01/2024, Quy chuẩn QCVN 16:2023/BXD chính thức có hiệu lực (thay thế quy chuẩn 16:2019) với nhóm vật liệu xây dựng như: gạch, đá, cát, ngói, sơn, ván gỗ, xi măng, thạch cao, kính, giấy dán tường, ống nhựa PE/PP… tại thị trường Việt Nam.

    PGS.TS Lê Trung Thành – Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng (Bộ Xây dựng) giải thích: “QCVN 16:2023 áp dụng cho những sản phẩm vật liệu xây dựng được sản xuất, nhập khẩu lưu thông trong nước với các qui định về thành phần hóa học, các loại hóa chất cấm (như amfibole), chỉ số phóng xạ, cường độ nén, độ mài mòn, thời gian thấm nước…

    Đặc biệt, QCVN 16:2023 nâng chuẩn hàm lượng formaldehyde trong các loại vật liệu, nhất là nhóm ván sàn công nghiệp vì có sử dụng keo và các chất phụ gia để bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng tại thị trường nội địa, tạo sự công bằng trong sản xuất nhóm hàng này và là điều kiện quan trọng khi xuất khẩu.

    Theo đó, qui định về hàm lượng formaldehyde tại QCVN 16:2023 “không lớn hơn 0,124mg/m3 hoặc 0,7mg/l hay 0,8mg/100gr” tương đương với các bộ tiêu chuẩn của các quốc gia “khó tính” như: Hoa Kỳ, Nhật, Bỉ, Anh… về biệt chất này. Nhưng theo giới chuyên môn, bộ Quy chuẩn QCVN 16:2023 vẫn còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề.

    Ông Trần Khánh Trung – Phó chủ tịch Hội kiến trúc sư thành phố Hồ Chí Minh nhận xét: “QCVN 16:2023 chưa có chỉ số quy định hàm lượng các hóa chất độc hại cho nhóm hàng vật liệu nội thất: keo, silicon, vải, da, thảm, chất chống thấm, đá làm bếp, vật liệu cách âm…”.

    Từ góc nhìn của y tế cộng đồng, PGS.TS Đỗ Văn Dũng – Trưởng khoa y tế cộng đồng, Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh đã chỉ ra hiện tượng bệnh lý “hội chứng khó chịu do tòa nhà” mà nguyên do là do… formaldehyde phát ra từ các loại vật liệu xây dựng, nội thất của ngôi nhà/văn phòng/trường học…Formaldehyde phát thải chậm trong không khí, kéo dài từ vài tháng đến 2 năm. Formaldehyde sẽ gia tăng ở môi trường có nhiệt độ và độ ẩm cao.

    Trước mức độ nguy hiểm của chất formaldehyde, Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) khuyến nghị sử dụng các sản phẩm gỗ ép “ngoại thất” để hạn chế tiếp xúc với formaldehyde trong nhà. Những sản phẩm này thải ra ít formaldehyde hơn vì chúng chứa nhựa phenol, không phải nhựa urê. Trước khi mua các sản phẩm gỗ ép, bao gồm vật liệu xây dựng, tủ, và đồ nội thất, người mua nên hỏi về hàm lượng formaldehyde trong các sản phẩm này. Mức độ formaldehyde trong nhà cũng có thể được giảm bớt bằng cách đảm bảo thông gió đầy đủ, nhiệt độ vừa phải và giảm độ ẩm thông qua việc sử dụng máy điều hòa không khí và máy hút ẩm.

    Xoay quanh chất độc này, ông Nguyễn Xuân Vĩ – chuyên gia đánh giá của Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng 3 (Quatest3) cho biết, để hạn chế nhiễm formadehyde ở mức thấp nhất, ngoài các biện pháp như tạo không gian thoáng mát, trao đổi khí, hãy là người tiêu dùng thông minh khi sử dụng các sản phẩm nội thất đạt chuẩn về an toàn với sức khỏe con người.

    Bên cạnh các quy định, tiêu chuẩn buộc nhà sản xuất phải tuân thủ, để chủ động giữ an toàn cho chính mình, trước hết, người tiêu dùng cũng cần cân nhắc kỹ trước khi lựa chọn sử dụng đồ nội thất, nên tham tham khảo ý kiến của các kiến trúc sư, chuyên gia để ứng dụng hiệu quả, an toàn cho ngôi nhà của mình.

    Cần phải chủ động chú ý đến chất lượng vật liệu, để ý các chỉ số trên sản phẩm, kiểm tra cả nhãn mác của cả giấy dán tường, miếng dán sàn … Không nên ham rẻ mà tiền mất tật mang, chọn những loại gỗ công nghiệp chất lượng kém, với quy trình sản xuất không đảm bảo, vượt quá ngưỡng an toàn cho phép.

    An Dương (T/h)
    https://vietq.vn/can-trong-voi-chat-nguy-hai-trong-san-pham-vat-lieu-xay-dung-d221576.html

    Gia tăng nguy cơ béo phì khi trẻ thường xuyên sử dụng thiết bị điện tử trong bữa ăn

    Theo các chuyên gia, việc cho phép trẻ em xem video, lướt điện thoại và ăn khi xem TV là nguy hiểm và có thể thúc đẩy “đại dịch” béo phì ngày càng gia tăng.

    Nhiều nghiên cứu đã báo cáo rằng ăn trong khi xem tivi hay điện thoại có nguy cơ gây béo phì, đặc biệt là ở trẻ nhỏ. Với thói quen vừa ăn vừa xem sẽ khiến trẻ có xu hướng ăn vặt khi xem tivi hay điện thoại ngoài những bữa ăn chính. Đây là tác hại thường gặp nhất của việc trẻ vừa ăn vừa xem tivi hay điện thoại.

    Việc ăn trong lúc xem tivi hay điện thoại sẽ khiến trẻ không nhận ra được khi nào cảm thấy no. Bởi vì toàn bộ sự chú ý của trẻ đã bị thu hút bởi các chương trình truyền hình. Khi “tín hiệu báo no” trong não bị vô hiệu hóa, trẻ sẽ có xu hướng ăn nhiều hơn so với nhu cầu thực tế dẫn đến sự tăng cân mất kiểm soát, gây ra béo phì. Bên cạnh đó, hầu hết các quảng cáo trên tivi hay các quảng cáo xen giữa các chương trình giải trí xem trên điện thoại đều liên quan đến thực phẩm, chủ yếu là thức ăn nhanh và thực phẩm đóng gói sẵn.

    Những sản phẩm này bắt mắt, xuất hiện nhiều lần sẽ khiến trẻ thích thú và muốn ăn thử. Đây là những loại thực phẩm không lành mạnh, chứa nhiều calo làm tăng nguy cơ béo phì trẻ em. Ngoài ra, ngồi xem tivi hay điện thoại trong nhiều giờ đồng hồ còn làm giảm tốc độ trao đổi chất trong cơ thể, khiến thức ăn bị tiêu hóa chậm hơn, dẫn đến sự tích tụ chất béo ở vùng bụng, làm cho trẻ tăng nguy cơ béo phì.


    Ảnh minh họa

    Tiến sĩ Ana Duarte, Giám đốc tại Bệnh viện Nhi Nicklaus ở Miami (Mỹ), tác giả chính của nghiên cứu giải thích rằng những phát hiện này cho thấy việc xem các thiết bị điện tử có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của những đứa trẻ này như thế nào. Cô giải thích rằng khi trẻ vừa ăn vừa xem điện thoại di động hoặc TV, chúng không nhận ra khi nào thì no hoặc khi nào thì phải ngừng ăn. Màn hình làm chúng phân tâm và chúng ăn liên tục. Điều này vừa nguy hiểm sức khỏe của trẻ vừa là yếu tố tiềm tàng gây thêm gánh nặng cho xã hội khi béo phì, thừa cân sẽ ảnh hưởng lớn đến tương lai của những đứa trẻ.

    Ông Tam Fry, Chủ tịch Quỹ Phát triển Trẻ em, cho biết những bữa ăn gia đình không bị xao lãng bởi các thiết bị điện tử đang trở thành ký ức xa vời, đồng thời cảnh báo ngày càng nhiều trẻ bị béo phì và mắc các bệnh lý, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, mà trước đây chỉ người lớn mới mắc phải.

    Các tác giả cũng lưu ý thời gian sử dụng thiết bị điện tử tăng lên cũng có liên quan đến các vấn đề sức khỏe khác, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, huyết áp cao và giấc ngủ kém.

    Kết quả của nghiên cứu đã được các nhà khoa học trình bày tại Hội nghị châu Âu về béo phì được tổ chức tại Venice, Italy trong các ngày 12-15/5/2024. Viện Y tế NICE của Anh khuyến nghị trẻ em cần được giới hạn thời gian sử dụng thiết bị điện tử tối đa là 2 giờ/ngày và phải có những ngày hoàn toàn không sử dụng điện thoại, TV.

    Khánh Mai (t/h)
    https://vietq.vn/gia-tang-nguy-co-beo-phi-khi-tre-thuong-xuyen-su-dung-thiet-bi-dien-tu-trong-bua-an-d221619.html