22 C
Hanoi
Thứ hai, Tháng mười hai 23, 2024
More
    Home Blog Page 444

    Công trình vốn nhà nước phải sử dụng vật liệu xây không nung

    0

    Bộ Xây dựng vừa ban hành Thông tư 13/2017/TT-BXD quy định sử dụng vật liệu xây không nung trong các công trình xây dựng. Trong đó nêu rõ quy định những công trình xây dựng sử dụng vật liệu xây không nung.

    Cụ thể, các công trình xây dựng được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách nhà nước, vốn nhà nước ngoài ngân sách, vốn vay của doanh nghiệp có vốn nhà nước lớn hơn 30% phải sử dụng vật liệu xây không nung trong tổng số vật liệu xây với tỷ lệ như sau: Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh: sử dụng 100%; các tỉnh đồng bằng Trung du Bắc bộ; các tỉnh vùng Đông Nam bộ: Tại các khu đô thị từ loại III trở lên sử dụng tối thiểu 90%, tại các khu vực còn lại sử dụng tối thiểu 70%; các tỉnh còn lại: Tại các đô thị từ loại III trở lên phải sử dụng tối thiểu 70%, tại các khu vực còn lại phải sử dụng tối thiểu 50%.

    Sản xuất gạch không nung bằng công nghệ ép rung tại Nhà máy Xi măng Lưu Xá. Ảnh: HN

    Các công trình xây dựng từ 9 tầng trở lên phải sử dụng tối thiểu 80% vật liệu xây không nung trong tổng số vật liệu xây. Các công trình có yêu cầu đặc thù không sử dụng vật liệu xây không nung thì phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xem xét, chấp thuận.

    Nhà nước khuyến khích sử dụng vật liệu xây không nung vào các công trình xây dựng không phân biệt nguồn vốn, số tầng.

    Thông tư có hiệu lực thi hành từ 1/2/2018.

    Thông tư nêu rõ, các công trình đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án hoặc được cấp giấy phép xây dựng trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành thì thực hiện như quyết định đã được phê duyệt dự án hoặc giấy phép xây dựng đã được cấp.

    Các công trình đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt dự án hoặc được cấp giấy phép xây dựng nhưng chưa khởi công xây dựng mà phải phê duyệt điều chỉnh, bổ sung dự án hoặc điều chỉnh, bổ sung giấy phép xây dựng sau ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, trường hợp không thay đổi thiết kế xây dựng công trình thì thực hiện như thiết kế xây dựng công trình đã được phê duyệt; trường hợp thay đổi thiết kế xây dựng công trình thì phải thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư này đối với phần công trình có thay đổi thiết kế xây dựng.

    Nhà nước khuyến khích việc chủ đầu tư thay đổi thiết kế để sử dụng vật liệu xây không nung.

    Theo chinhphu.vn

    Đối tác Hàn Quốc muốn đầu tư điện mặt trời tại Quảng Trị

    0

    Đoàn công tác của Công ty Công nghiệp IL Yang (Hàn Quốc) vừa có buổi làm việc với UBND tỉnh Quảng Trị, nhằm trao đổi, tìm hiểu đầu tư dự án điện mặt trời.

    Theo Công ty Công nghiệp IL Yang, trước khi làm việc với UBND tỉnhh Quảng Trị, Công ty đã có chuyến khảo sát thực tế ở huyện Hải Lăng và huyện Vĩnh Linh, qua đó nhận thấy Quảng Trị là địa phương có tiềm năng để phát triển điện mặt trời.

    Trong thời gian tới, Công ty Công nghiệp IL Yang sẽ tiếp tục làm việc với tỉnh và các ngành chức năng tìm hiểu thực tế, nắm rõ hơn các chỉ số để nghiên cứu, tiến tới đầu tư xây dựng nhà máy điện mặt trời tại huyện Hải Lăng (với công suất 500MW) và huyện Vĩnh Linh (với công suất 200MW).

    Công ty Công nghiệp IL Yang bày tỏ mong muốn được trao đổi các thông tin liên quan cũng như sự hỗ trợ, tạo điều kiện của tỉnh Quảng Trị trong việc nghiên cứu đầu tư dự án điện mặt trời.

    Quảng Trị đang có chủ trương thu hút các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, trong đó ưu tiên vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và công nghiệp thân thiện với môi trường.

    Trao đổi với Công ty Công nghiệp IL Yang, ông Nguyễn Quân Chính, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị cho biết: hiện nay, tỉnh Quảng Trị đang có chủ trương thu hút các dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, trong đó ưu tiên vào các lĩnh vực có lợi thế cạnh tranh và công nghiệp thân thiện với môi trường và trong thực tế đã có một số dự án điện mặt trời.

    “Đối với đề xuất đầu tư các nhà máy điện mặt trời tại Hải Lăng và Vĩnh Linh của Công ty ILYang với công nghệ tiên tiến là rất phù hợp với chủ trương quy hoạch của địa phương. Từ đó, tỉnh Quảng Trị sẵn sàng hợp tác, tạo điều kiện để Công ty sớm hoàn thiện thủ tục và áp dụng các chính sách hỗ trợ tối đa của tỉnh” – Ông Nguyễn Quân Chính nhấn mạnh.

    Trước mắt, UBND tỉnh Quảng Trị giao cho các sở, ngành liên quan hướng dẫn Công ty Công nghiệp IL Yang chuẩn bị hồ sơ thủ tục nghiên cứu dự án với quy mô nhỏ trước để thử nghiệm (khoảng 100 MW).

    Theo nangluongvietnam.vn

    Công bố kết quả thử nghiệm sử dụng xăng sinh học

    0

    Vụ Khoa học và Công nghệ – Bộ Công Thương vừa công bố những kết quả thử nghiệm và đưa ra khuyến cáo việc sử dụng xăng sinh học, nhằm giúp người tiêu dùng hiểu hơn về loại nhiên liệu thân thiện này. 

    Theo kết quả thử nghiệm, khi sử dụng xăng sinh học E5, E10 cho động cơ xe máy đang lưu hành, động cơ phát huy công suất vượt trội hơn so với xăng thông thường, suất tiêu hao nhiên liệu được cải thiện, có thể sử dụng lẫn với nhiên liệu xăng thông thường mà không cần phải điều chỉnh hệ thống nhiên liệu.

    So sánh các thông số tinh năng và phát thải của động cơ xe máy khi sử dụng nhiên liệu sinh học E5 và E10 với nhiên liệu RON92.

    Hình trên thể hiện kết quả so sánh (tính theo % chênh lệch) giữa các thông số tính năng (công suất, lực kéo và suất tiêu thụ nhiên liệu) và nồng độ phát thải của động cơ xe máy khi sử dụng xăng pha cồn sinh học E5 và E10 so với khi sử dụng xăng khoáng RON92 thị trường.

    Khi sử dụng nhiên liệu sinh học E5, công suất và lực kéo lần lượt tăng 6,50% và 6,24% so với khi sử dụng nhiên liệu xăng khoáng RON92. Suất tiêu thụ nhiên liệu giảm tới 6,37% nhờ công suất được cải thiện trong khi lượng nhiên liệu tiêu thụ tính theo kg trên giờ (kg/h) gần như không thay đổi.

    Các thành phần phát thải monoxit cacbon (CO) và hydro cacbon (HC) giảm lần lượt là 14,40% và 21,65% đối với nhiên liệu sinh học E5 so với khi sử dụng xăng khoáng RON92. Đây là kết quả rất có lợi đối với môi trường, nhất là đối với thành phần phát thải CO, một thành phần phát thải được quan tâm nhất đối với động cơ xe máy. Quá trình cháy được cải thiện nhờ hỗn hợp giữa không khí và nhiên liệu đồng đều hơn do khả năng bay hơi tốt của nhiên liệu sinh học E5.

    Ngoài ra, sự có mặt của thành phần oxy trong nhiên liệu sinh học E5 là yếu tố giúp cho nhiên liệu được cháy trong điều kiện không quá thiếu oxy (cháy với hỗn hợp nhạt hơn so với trường hợp động cơ xăng dùng bộ chế sử dụng nhiên liệu xăng RON92) và cháy kiệt. Đây là cơ sở tạo ra ít khí thải độc hại CO và HC.

    Tuy nhiên, phát thải NOx và CO2 trong trường hợp này cao hơn đối với nhiên liệu sinh học E5 và E10. Kết quả này là hệ quả của việc cải thiện quá trình cháy trong động cơ. Nhiệt độ cháy tăng dẫn tới phát thải NOx cao hơn.

    Ngoài ra, nhờ nhiên liệu được cháy kiệt mà hầu hết hydro cacbon đều được chuyển thành CO2. Cũng cần phải nói thêm rằng, xét về mặt tinh chất của nhiên liệu sinh học etanol, như đã trao đổi ở trên, thì phát thải CO2 và NOx có thể giảm so với khi sử dụng nhiên liệu xăng nhờ tỷ lệ phân tử giữa cacbon và hydro thấp hơn và nhiệt hóa hơi cao hơn (làm giảm nhiệt độ cháy) so với xăng.

    Mặc dù vậy, kết quả nghiên cứu này cho thấy sự phù hợp so với một số kết quả được công bố trên thế giới.

    Thử nghiệm xe máy trên băng thử cho thấy, công suất động cơ khi sử dụng xăng sinh học E10 có xu hướng tăng nhẹ, trung bình khoảng 4,4% ở tay số III và 1,7% ở tay số IV, suất tiêu hao nhiên liệu được cải thiện với mức giảm lớn nhất là 6,25% tại tay số III. Trong khi đó với xăng sinh học E15 và E20 công suất và tiêu hao nhiên liệu ít thay đổi so với xăng thông thường. Phát thải CO và HC giảm mạnh trong khi phát thải NOx tăng do quá trình cháy được cải thiện rõ rệt khi sử dụng xăng sinh học. Phát thải CO2 tăng lên nhờ quá trình cháy hoàn hảo hơn đã chuyển đổi phần lớn phát thải độc hại CO thành CO2.

    Như vậy, động cơ xe máy sử dụng xăng sinh học đến E20 không cần thiết phải điều chỉnh tăng lượng nhiên liệu cung cấp. Tuy nhiên, thời điểm đánh lửa có thể phải điều chỉnh theo hướng giảm góc đánh lửa sớm do thời gian cháy trễ của xăng sinh học E20 giảm đi rõ rệt so với khi sử dụng xăng khoáng RON92.

    Xăng sinh học E5, E10 không ảnh hưởng nhiều tới chi tiết bằng vật liệu thép nhưng có ảnh hưởng hơn so với xăng khoáng RON92 đối với các chi tiết bằng kim loại màu như đồng cũng như các chi tiết phi kim.

    Đối với động cơ ô-tô, xu hướng thay đổi công suất động cơ ô-tô khi sử dụng nhiên liệu xăng sinh học với tỷ lệ khác nhau cũng tương tự như với động cơ xe máy. Thử nghiệm xe ô-tô phun xăng điện tử cho thấy công suất động cơ với xăng sinh học E10, E15 và E20 rất ít thay đổi so với xăng thông thường: công suất tăng nhỏ với xăng sinh học E10, trung bình tăng 1,86% tại tay số IV và 1,34% tại tay số V, trong khi giảm không đáng kể với xăng sinh học E15, 1,78% tại tay số IV và 0,67 tại tay số V, với xăng sinh học E20 giảm khoảng 3% tại cả hai tay số.

    Đặc biệt đối với xe chế hòa khí, công suất động cơ khi sử dụng xăng sinh học E10, E15 và E20 đều có xu hướng tăng, tương ứng 7,91%, 6,81% và 6,97%, điều đó có nghĩa tinh năng công suất động cơ dùng chế đã được cải thiện rõ nét khi sử dụng xăng sinh học.

    Về vấn đề tương thích vật liệu, các chi tiết bằng kim loại thép như kim ba cạnh trong bộ chế hòa khí, tác động của xăng sinh học E10 và xăng khoáng RON92 là tương đương. Tuy nhiên với các chi tiết bằng kim loại màu như đồng, vật liệu của các chi tiết như gic-lơ nhiên liệu, vít điều chỉnh không khí, vít điều chỉnh xăng ở chế độ không tải, vít xả xăng… thì xăng sinh học E10 có tác động oxy hóa bề mặt, làm xỉn màu, rỗ bề mặt mạnh hơn so với xăng khoáng RON92. Các lớp oxit kim loại theo thời gian và tùy vào điều kiện hoạt động cụ thể của động cơ có thể bong tróc tạo hạt và đi vào khe hở giữa các bề mặt chuyển động làm tăng mức độ mòn của chi tiết. Đồng thời khi lớp oxit bong tróc cũng làm thay đổi kích thước như đường kính lỗ gic-lơ, mòn vít điều chỉnh xăng, vít điều chỉnh không khí dẫn đến sai lệch trong việc định lượng nhiên liệu và không khí tạo hỗn hợp trong bộ chế hòa khí.

    Các giắc nối bơm điện bằng đồng bị oxy hóa có thể dẫn đến hiện tượng tiếp xúc điện kém. Ngoài ra, lớp kim loại tráng phủ trên mặt bộ báo mức xăng bị oxy hóa nhiều hơn, tuy nhiên, các vạch nền bằng thiếc không bị ảnh hướng do đó không dẫn đến sai lệch trong việc chỉ báo mức xăng.

    Các chi tiết phi kim (nhựa, cao su, giấy…) khi ngâm trong nhiên liệu xăng khoáng RON92 và xăng sinh học E10 đều có hiện tượng phôi màu, trong đó mức độ phôi màu của các chi tiết tiếp xúc với xăng sinh học E10 mạnh hơn. Đồng thời trên các mẫu giấy lọc cũng thu được nhiều cặn bẩn, màng bám, chứng tỏ vật liệu từ các chi tiết bong ra.

    Trên thực tế sử dụng, các cặn bẩn hình thành trong quá trình vận hành trước đó của xe nằm trong hệ thống cung cấp nhiên liệu hoặc trong thùng chứa nhiên liệu có thể và hòa lẫn vào nhiên liệu xăng sinh học và đi đến bộ phận lọc gây tắc lọc.

    Để tránh hiện tượng này, sau khi phương tiện chuyển sang sử dụng xăng sinh học khoảng 400km vận hành (tương đương với 2 lần điền đầy bình xăng, đối với xe máy) và khoảng 1000km vận hành (tương đương với 2 lần điền đầy bình xăng, đối với ô-tô) các lọc nhiên liệu cần được bảo dưỡng làm sạch hoặc thay mới.

    Các chi tiết bằng nhựa trắng như vỏ bộ lọc, lưới lọc bằng nhựa… tiếp xúc thời gian dài với xăng sinh học E10 bị chuyển sang màu vàng rõ hơn so với xăng khoáng RON92 cho thấy khả năng bị lão hóa của các chi tiết nhanh hơn. Chi tiết phao xăng trong thùng nhiên liệu, phao xăng trong buồng phao của bộ chế hòa khí, vật liệu nhựa màu, bị giảm khối lượng có thể dẫn đến sự sai lệch mức xăng trong buồng phao ảnh hưởng đến tỷ lệ hòa trộn nhiên liệu/không khí trong bộ chế hòa khi, báo không đúng mức nhiên liệu trong bình chứa.

    Tuy nhiên mức ảnh hưởng của xăng sinh học E10 đến các chi tiết này không lớn so với xăng khoáng RON92 vì thế vẫn có thể coi là tương thích với xăng sinh học E10.

    Các chi tiết cao su như màng bơm tăng tốc của bộ chế hòa khí bị biến dạng nhiều hơn đối với nhiên liệu sinh học E10, vòng gioăng làm kín trở nên cứng hơn, khối lượng các chi tiết này tăng lên sau thời gian tiếp xúc với nhiên liệu do bị trương nở, lão hóa. Các chi tiết này cần lưu ý thay thế trước khi chuyển sang sử dụng xăng sinh học E10.

    Khi sử dụng xăng sinh học E10, E15 và E20 khả năng khởi động lạnh và khởi động nóng đối với các loại nhiên liệu này tương tự như với xăng khoáng RON92, tuy nhiên với tỷ lệ cao hơn nữa khả năng khởi động có thể bị ảnh hưởng do nhiệt hóa hơi của nhiên liệu cao hơn làm lạnh đường ống nạp và cần có biện pháp sấy nóng đường ống nạp. Khả năng tăng tốc của xe cũng không bị ảnh hưởng, thậm chí còn được cải thiện chút ít so với xăng khoáng RON92.

    Các nghiên cứu thực nghiệm đánh giá độ bền và tuổi thọ của động cơ xe máy và ô-tô cho thấy mức độ ảnh hưởng của xăng sinh học E10 và xăng truyền thống là khá tương đồng nhau và đều nằm trong giới hạn cho phép về mòn cũng như biến đổi các tinh chất của dầu bôi trơn.

    Tuy nhiên, xăng sinh học E10 có ảnh hưởng rõ nét hơn đối với sự biến đổi của áp suất nén, công suất, lượng nhiên liệu tiêu thụ, phát thải, mức độ mài mòn cũng như chất lượng của dầu bôi trơn.

    Tóm lại, khi sử dụng xăng sinh học E5, E10 cho động cơ xe máy đang lưu hành, động cơ phát huy công suất vượt trội hơn so với xăng thông thường, suất tiêu hao nhiên liệu được cải thiện, có thể sử dụng lẫn với nhiên liệu xăng thông thường mà không cần phải điều chỉnh hệ thống nhiên liệu.

    Khi sử dụng xăng sinh học E5, E10 cho động cơ xe ô-tô đang lưu hành gồm cả loại thiết kế phun xăng điện tử và chế hòa khí, công suất động cơ không bị ảnh hưởng, thậm chí còn được cải thiện (đối với xe dùng chế hòa khí), có thể sử dụng lẫn với nhiên liệu xăng thông thường mà không cần phải điều chỉnh lượng nhiên liệu cung cấp. Với tỷ lệ etanol trong hỗn hợp xăng sinh học lớn hơn 10% cần quan tâm đến việc điều chỉnh lượng nhiên liệu cung cấp, thời điểm đánh lửa…

    Xăng sinh học E5, E10 không ảnh hưởng nhiều tới chi tiết bằng vật liệu thép nhưng có ảnh hưởng hơn so với xăng khoáng RON92 đối với các chi tiết bằng kim loại màu như đồng cũng như các chi tiết phi kim. Đối với xe thế hệ cũ, các chi tiết bằng đồng có nhiều trong bộ chế hòa khí còn với xe thế hệ mới số lượng các chi tiết bằng đồng không nhiều (đã được chuyển sang vật liệu hợp kim đồng) mà chủ yếu là ở các giắc nối. Các chi tiết làm bằng cao-su tự nhiên như bơm tăng tốc bộ chế hòa khí và vòng gioăng làm kín cần lưu ý thay thế bằng vật liệu cao-su nhân tạo có độ bền cao hơn khi tiếp xúc với cồn etanol.

    Cần lưu ý đến việc bảo dưỡng các lọc nhiên liệu cho động cơ sau khi chuyển sang sử dụng xăng sinh học E10. Ngoài ra, chu kỳ thay dầu cần được rút ngắn khoảng 5% đến 10% so với khi sử dụng xăng khoáng RON92, trong trường hợp động cơ luôn được vận hành ở chế độ làm việc khắc nghiệt trong suốt chu kỳ thay dầu, nhằm bảo đảm sự hoạt động ổn định và đáp ứng tuổi thọ cho động cơ.

    Theo nangluongvietnam.vn

    Sản xuất sạch hơn có cần đầu tư lớn không?

    0

    Khi nào cần đầu tư cho sản xuất sạch hơn (SXSH)? Chi phí đầu tư cho SXSH có lớn không… đó là những câu hỏi thường được các doanh nghiệp đặt ra khi tiếp cận với SXSH.

    Doanh nghiệp có quy mô nào thì nên đầu tư cho SXSH?

    Trên thực tế, các doanh nghiệp tuỳ thuộc quy mô, trình độ công nghệ, văn hoá quản lý đều có thể áp dụng SXSH ở các cấp độ khác nhau sao cho phù hợp với mình.

    Qua triển khai, nhiều doanh nghiệp đã áp dụng SXSH với các giải pháp đơn giản nhất như là thực hiện các biện pháp quản lý nội vi (sắp xếp hợp lý trong dây chuyền sản xuất), thực hiện tốt các quy trình công nghệ, quy trình vận hành thiết bị, các dụng cụ đo lường được hiệu chỉnh chính xác để quản lý tốt quá trình sản xuất, giảm chi phí tiêu hao nguyên nhiên liệu, điện, nước,…

    Những giải pháp này không tốn chi phí đầu tư hoặc chi phí rất ít, nhưng mang lại lợi ích rất lớn về kinh tế. Theo đánh giá, nếu doanh nghiệp thực hiện quản lý nội vi tốt, hợp lý có thể giảm 20% – 30% tải lượng ô nhiễm mà không tốn khoản chi phí đầu tư nào và khoảng 20% tải lượng ô nhiễm có thể thu được với các khoản đầu tư mà thời gian hoàn vốn rất ngắn (tính bằng tháng).

    Trên thực tế, các doanh nghiệp tuỳ thuộc quy mô, trình độ công nghệ, văn hoá quản lý đều có thể áp dụng SXSH ở các cấp độ khác nhau sao cho phù hợp với mình.

    Tiếp theo doanh nghiệp có thể thực hiện các giải pháp đầu tư lớn hơn như thay đổi sản phẩm, thiết kế lại sản phẩm, cải tiến hoặc đổi mới công nghệ, thiết bị, thay đổi nguyên liệu thân thiện với môi trường,… Cho dù kinh phí đầu tư ít hay nhiều thì các chi phí đầu tư cho SXSH đều có thời gian thu hồi vốn nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế cao.

    Khi nào cần đầu tư cho SXSH?

    Như trên đã trình bày, SXSH là một hành trình với các cấp độ khác nhau, từ các giải pháp SXSH đơn giản, không cần đầu tư, tiến tới các giải pháp phải đầu tư. Song khác hẳn với đầu tư xử lý cuối đường ống, các chi phí đầu tư cho SXSH đều cho thời gian thu hồi vốn nhanh và mang lại hiệu quả kinh tế.

    Dưới đây là một số kết quả về việc thực hiện các giải pháp SXSH tại một số nước trên thế giới và Việt Nam:

    Trong Dự án Desire (Ấn Độ) thực hiện từ năm 1993 -1995 tại các doanh nghiệp vừa và nhỏ, kết quả thu được:Tại Úc, một công ty dệt đang nhuộm một số lượng lớn sợi dệt kim, đặc biệt là sợi 100% bông hoặc pha bông. Khi doanh nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn, hai quá trình mới đã được đưa vào sử dụng là nhuộm lạnh gián đoạn và sử dụng thuốc nhuộm Cibacron C.

    Nhuộm lạnh gián đoạn là phương pháp nhuộm chất lượng cao và hiệu quả về mặt môi trường. Quá trình này tách được lượng muối khỏi dòng thải, giảm lượng nước và năng lượng sử dụng,giảm tải lượng dòng thải và giảm diện tích sử dụng nơi sản xuất. Đồng thời, quá trình này cũng cũng sử dụng ít hoá chất hơn và làm giảm nhiều hơn lượng màu trong dòng thải. Kết quả đã giảm 12% lượng nước sử dụng; với kinh phí đầu tư là 400.000 USD, số tiền tiết kiệm hàng năm là 619.000USD và thời gian hoàn vốn là 8 tháng.

    Tại Việt Nam, trong thời gian qua, Công ty TNHH Trung tâm sản xuất sạch hơn đã triển khai dự án đến một số doanh nghiệp sản xuất tại các lĩnh vực sản xuất khác nhau và đã thu được các kết quả rất thuyết phục.

    Số tiền các đơn vị tiết kiệm được trong năm đối với ngành dệt là 2.800 – 73.000 USD, ngành sản xuất giấy là 91.000 – 159.000 USD, ngành sản xuất thực phẩm là 6.700 – 24.600 USD, ngành chế biến gia công kim loại là 9.900 – 261.600 USD.

    Về môi trường, đã giảm được 20- 43% phát thải khí do tiết kiệm nhiên liệu đốt; giảm khoảng 20% tổng lượng nước thải, giảm 20 – 30 % tổng các thành phần ô nhiễm hữu cơ trong nước thải; giảm 5-30% chất thải rắn; giảm đáng kể tiêu thụ nguyên, nhiên liệu thô, than, dầu và nước.

    Theo VNCPC

    Công nghệ mới sản xuất bê tông từ chai lọ nhựa phế thải

    0

    Theo trang tin News.mit.edu, nhóm chuyên gia ở Viện công nghệ Massachusett Mỹ (MIT) vừa phát triển thành công công nghệ mới, tạo ra một loại bê tông khỏe hơn so với bê tông truyền thống nhờ được tăng độ cứng bằng chai lọ, rác thải nhựa chiếu xạ. Đây là phát minh “một mũi tên trúng nhiều đích” tạo ra sản phẩm hữu ích đồng thời giải quyết được bài toán về rác thải.

    Thông thường, việc bổ sung nhựa vào bê tông sẽ làm kết cấu vật liệu trở nên suy yếu, nhưng công nghệ của MIT đã khắc phục được nhược điểm này, bằng cách cho nhựa tiếp xúc với tia gamma, từ đó giúp bê tông tăng cứng, khỏe hơn.

    Theo Phó giáo sư Michael Short, thành viên nhóm nghiên cứu ở MIT, nhựa chiếu xạ sẽ được nghiền thành bột và trộn với xi măng. Kết quả giúp tạo ra vật liệu bê tông chắc cứng hơn 15 – 20% so với bê tông tiêu chuẩn mà không để lại hiện tượng nhiễm xạ. Nguồn chiếu xạ ở đây là tia gamma cobalt-60, thường được sử dụng thương mại để khử nhiễm thực phẩm nên rất an toàn cho con người nếu sống trong các ngôi nhà xây dựng bằng các loại bê tông nói trên.

    Công nghệ mới giúp bê tông khỏe hơn so với bê tông truyền thống nhờ được tăng độ cứng cứng từ chai lọ, rác thải nhựa chiếu xạ. Nguồn ảnh: News.mit.edu

    Hiện, nhóm đề tài đang có kế hoạch thử nghiệm các loại nhựa thải khác với nhiều liều phóng xạ gamma khác nhau để xác định ảnh hưởng của nó đối với bê tông. Với việc thay thế 1,5% bê tông bằng nhựa chiếu xạ sẽ cải thiện đáng kể độ cứng của bê tông. Thông thường, bê tông sản xuất khoảng 4,5% khí thải carbon dioxide của thế giới, nếu giảm 1,5% lượng bê tông sẽ giảm được 0,0675 % khí thải carbon dioxide của thế giới, lượng khí thải này sẽ rất lớn nếu công nghệ được áp dụng trên quy mô toàn cầu.

    Theo News.mit.edu

    Cách dùng điều hòa sưởi ấm hiệu quả, tiết kiệm điện

    0

    Nhiệt độ sưởi ấm phải hợp lý, đảm bảo đối lưu không khí, tránh hướng gió thổi trực tiếp vào người hay chỗ nằm ngủ… đó là những lưu ý được chuyên gia Công ty Điện lạnh Quang Trung đưa ra khi các hộ gia đình sử dụng tính năng sưởi ấm của máy điều hòa trong mùa đông.

    Chuyên gia của Công ty Điện lạnh Quang Trung cho biết, người tiêu dùng vẫn cho rằng việc dùng điều hòa sưởi ấm trong những ngày giá lạnh sẽ tốn nhiều điện năng tiêu thụ hơn việc dùng điều hòa để làm lạnh.

    Nhưng về nguyên tác hoạt động của máy điều hòa 2 chiều (chiều lạnh và chiều nóng) khi sử dụng thì công suất hệ thống là không đổi cho cả hai trường hợp. Cho nên khi máy hoạt động tại chế độ sưởi ấm và theo cơ chế hoạt động thì vai trò của dàn máy trong nhà và dàn máy ngoài trời sẽ hoán đổi cho nhau, lúc này máy sẽ tiêu hao một phần điện năng nhỏ để cấp điện cho van đảo chiều trong suốt quá trình hệ thống chạy sưởi ấm. Do đó, điện năng tiêu thụ cho chế độ sưởi ấm có lớn hơn so với làm lạnh, nhưng không nhiều.

    Nhưng về nguyên tác hoạt động của máy điều hòa 2 chiều (chiều lạnh và chiều nóng) khi sử dụng thì công suất hệ thống là không đổi cho cả hai trường hợp.

    Chuyên gia Công ty Điện lạnh Quang Trung cũng chia sẻ “bí quyết” để sử dụng máy điều hòa sưởi ấm hiệu quả, an toàn cũng như tiết kiệm điện, cần lưu ý những điểm sau:

    Những điều nên lưu ý khi sử dụng điều hòa để sưởi ấm: 

    Để nhiệt độ sưởi ấm trong phòng hợp lý (khoảng từ 22 – 25 độ C).

    Để nhiệt độ từ 26 – 28 độ C khi trong phòng có trẻ nhỏ.

    Lựa chọn máy điều hòa phù hợp với dung tích và phòng sử dụng (Máy 1HP tương ứng phòng 36m2).

    Định kỳ vệ sinh máy lạnh (2 tháng hoặc 4 tháng) để làm sạch dàn trao đổi nhiệt giúp hiệu quả sưởi ấm tốt hơn.

    Kiểm tra và nạp gas đầy đủ cho hệ thống vì thiếu gas là nguyên nhân trực tiếp và lớn nhất dẫn đến hiệu quả sưởi ấm cũng như làm lạnh kém.

    Nên kiểm tra thường xuyên quạt đảo gió, đảm bảo luôn làm việc liên tục dù làm lạnh hay sưởi ấm để đối lưu không khí tốt hơn.

    Những điều cần hạn chế:

    Hạn chế mở cửa để tránh thất thoát hơi nóng ra ngoài hoặc hơi lạnh xâm nhập vào phòng (chỉ hạn chế chứ không phải không được mở).

    Không nên điều chỉnh nhiệt độ quá cao. Mức chênh lệch nhiệt độ trong phòng và ngoài trời cao nhất 10 độ. Nếu không dễ dẫn đến tình trạng nóng – lạnh đột ngột, gây cảm và các bệnh hô hấp, huyết áp.

    Chỉnh nhiệt độ quá thấp. Để hướng gió thổi trực tiếp vào người hay chỗ nằm ngủ.

    Theo tietkiemnangluong.vn

    Hệ thống pin mặt trời khổng lồ có hình như một bông hoa

    0

    Smartlower POP là hệ thống pin mặt trời có dạng xếp giống một cách hoa. Hệ thống này có thể sản xuất ra lượng điện năng nhiều hơn gấp 40% so với các hệ thống pin mặt trời truyền thống.

    Sản phẩm là thành quả nghiên cứu của một người Áo có tên Alex Swatek và hai người bạn khác vào năm 2010. Mục đích của nhóm nhằm thiết kế một thiết bị có thể tạo ra điện bằng năng lượng mặt trời dễ tiếp cận và hấp dẫn với khách hàng.

    Theo hãng tin AP, Smartlower POP lấy cảm hứng từ hoa hướng dương với 12 tấm pin năng lượng mặt trời có dạng cánh hoa xếp chồng, diện tích khoảng 59m2. Tất cả 12 tấm pin này được lắp cùng một trục và sẽ tự động xòe ra khi có ánh sáng Mặt trời.

    Việc xếp dưới dạng cánh hoa giúp Smartlower POP có thể tận dụng tối đa ánh sáng Mặt trời bằng cách theo dõi các tia sáng từ lúc Mặt trời mọc đến khi lặn. So với các tấm pin năng lượng mặt trời truyền thống chỉ có thể đặt một góc cố định, Smartlower POP tỏ ra có lợi thế hơn cả về hiệu suất.

    Thiết bị cũng có thể tự động tắt khi phát hiện mặt trời đã lặn. Đáng chú ý, khi phát hiện thời tiết xấu như mưa to hoặc tốc độ gió lớn, Smartlower POP có khả năng tự cuộn lại. Ngoài ra, nhờ hệ thống dọn dẹp thông minh phía dưới mỗi tấm pin, Smartlower POP có thể tự làm sạch bề mặt để đạt được hiệu suất hấp thu tốt nhất.

    Mỗi một hệ thống Smartlower POP có thể tạo ra lượng điện 3.400 tới 6.200 kWh mỗi năm tùy thuộc vào khu vực. Nếu khách hàng có nhu cầu năng lượng cao hơn, phía công ty này cũng cung cấp tùy chỉnh nâng cao sản lượng điện.

    Khi sản phẩm xuất hiện lần đầu tiên tại Philippines, chủ tịch Smartflower Thái Bình Dương, ông John McEnroe hy vọng, sản phẩm sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng tại Philippines, nơi có số ngày nắng khá nhiều, thuận tiện để sản xuất năng lượng xanh.

    John McEnroe khẳng định: “Smartfolwer là một tuyên bố mạnh mẽ về năng lượng tái tạo cho bạn, đồng nghiệp, các đối tác kinh doanh hay các đối thủ cạnh tranh về cam kết sống xanh, giảm lượng khí thải carbon và quản lý môi trường tốt”.

    Chiếc Smartlower POP đầu tiên được lắp tại De La Salle Lipa, một cơ sở giáo dục nằm cách thủ đô Manila khoảng 1 giờ chạy xe. Giá bán lẻ hiện tại của một bộ sản phẩm này tại Philippines là 17,7 ngàn USD (khoảng 403 triệu đồng).

    Hiện nay, Philippines vẫn là một quốc gia phụ thuộc khá nhiều vào nhiên liệu hóa thạch để phát điện. Theo Bộ năng lượng nước này, lượng điện từ than đá chiếm tới 48% sản lượng điện toàn quốc trong năm 2016. Tuy nhiên, Chương trình năng lượng tái tạo quốc gia đang giúp Philippines có nhiều tiến bộ mới trong việc mở rộng nguồn cung điện năng “xanh và sạch” hơn.

    Theo Vnreview

    Tập đoàn khai mỏ lớn nhất thế giới cam kết chống biến đổi khí hậu

    0

    Tập đoàn khai mỏ lớn nhất thế giới BHP ngày 19/12 tuyên bố sẽ rút khỏi Hiệp hội Than thế giới (WCA) và xem xét lại tư cách thành viên của Phòng Thương mại Mỹ để thể hiện ủng hộ hành động chống biến đổi khí hậu.

    ​Theo báo cáo dài 22 trang của BHP, tập đoàn này đang cân nhắc việc rút khỏi Hiệp hội Than thế giới.

    BHP cũng không tán thành quan điểm của Phòng Thương mại Mỹ phản đối Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu và cơ chế định giá khí thải carbon. BHP sẽ đưa ra quyết định có rút khỏi 2 tổ chức trên hay không vào tháng 3/2018.

    Trong khi đó, BHP tuyên bố vẫn duy trì tư cách thành viên tại Hiệp hội Khoáng sản Australia (MCA), song cảnh báo sẽ ra khỏi tổ chức này nếu MCA không kiềm chế việc sử dụng than đá. Tiêu thụ than đá là một trong những nguyên nhân chính gây ra tình trạng ấm lên toàn cầu và ô nhiễm không khí.

    BHP cho rằng để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu cần phải giảm thiểu khí phát thải đồng thời sử dụng năng lượng tái tạo.

    Tập đoàn liên doanh Anh-Australia BHP đang xem xét chính sách của các tổ chức mà BHP là thành viên có phù hợp với quan điểm của tập đoàn hay không.

    BHP cho rằng để ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu cần phải giảm thiểu khí phát thải đồng thời sử dụng năng lượng tái tạo.

    Theo đó, BHP ủng hộ Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu, đồng thời nhấn mạnh một cơ chế toàn cầu hiệu quả để giảm thiểu khí phát thải cần phải áp dụng một loạt biện pháp bổ sung bao gồm cả việc định giá khí thải carbon.

    Định giá khí thải carbon là cơ chế mà các doanh nghiệp trả một khoản tiền tương ứng với lượng CO2 mà họ phát thải ra môi trường trong quá trình hoạt động kinh doanh.

    Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu được 196 nước thông qua tại Paris (Pháp) cách đây 2 năm. Theo đó, các nước tham gia thỏa thuận sẽ bắt đầu triển khai kế hoạch cắt giảm lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính để kiềm chế mức tăng nhiệt độ trên toàn cầu không quá 2 độ C, thậm chí 1,5 độ C nếu có thể, so với nhiệt độ của thời kỳ tiền cách mạng công nghiệp (vào khoảng thập niên 50 của thế kỷ 19).

    Tuy nhiên, hiệp định lịch sử về biến đổi khí hậu này đang đối mặt với áp lực sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump quyết định Mỹ rút khỏi thỏa thuận này.

    Theo Vietnamplus.vn

    Những rào cản khi doanh nghiệp tham gia sản xuất sạch hơn

    0

    Lợi ích của áp dụng sản xuất sạch hơn (SXSH) là điều không ai có thể phủ nhận. Song khi bắt tay vào triển khai SXSH, doanh nghiệp vẫn gặp phải không ít khó khăn.

    Doanh nghiệp nào có thể áp dụng SXSH?

    SXSH có thể áp dụng cho mọi doanh nghiệp, với các quy mô và hình thái hoạt động khác nhau như: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác. Tuỳ trình độ công nghệ và trình độ quản lý mà các doanh nghiệp có thể triển khai áp dụng SXSH cho phù hợp, hiệu quả.

    SXSH có thể áp dụng cho mọi doanh nghiệp, với các quy mô và hình thái hoạt động khác nhau.

    Những khó khăn thường gặp khi doanh nghiệp áp dụng SXSH

    SXSH được nhìn nhận là một phương pháp luận mà việc áp dụng sẽ đem lại hiệu quả kinh tế, đồng thời giảm thiểu ô nhiễm môi trường và rất phù hợp với các nước đang phát triển. Tuy nhiên, một số nguyên nhân sau vẫn còn làm hạn chế quá trình áp dụng SXSH.

    Nguyên nhân từ bên ngoài công ty:

    Hệ thống khung thể chế về sản xuất sạch hơn chưa được xây dựng đồng bộ;
    Nguồn nhân lực về áp dụng SXSH của nhà máy còn bị hạn chế;
    Khó khăn trong việc tiếp cận các công nghệ sạch hơn; và
    Khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn tài chính bên ngoài

    Khó khăn đến từ nội bộ công ty:

    Nhận thức về sản xuất sạch hơn còn hạn chế, đặc biệt là sức ỳ của lãnh đạo;
    Thiếu thông tin và trình độ chuyên môn;
    Nguồn lực về áp dụng SXSH của các doanh nghiệp còn yếu;
    Thách thức về tài chính; và
    Ganh đua để đạt được lợi thế kinh doanh, đặc biệt là sức ép về lợi nhuận trước mắt, chưa chú ý đúng mức về môi trường.

    Vai trò của các thành viên khi doanh nghiệp thực hiện SXSH?

    SXSH yêu cầu sự tham gia của mọi thành viên trong doanh nghiệp, hay nói cách khác là phải lôi cuốn mọi người cùng tham gia.

    Chuyên gia của Trung tâm Sản xuất sạch hơn tập huấn về SXSH cho các doanh nghiệp.

    Đặc biệt SXSH cần có sự cam kết và chỉ đạo thực hiện tích cực từ người đứng đầu doanh nghiệp. Một đánh giá SXSH thành công nhất thiết phải có sự cam kết mạnh mẽ từ phía ban lãnh đạo. Cam kết này thể hiện qua sự tham gia và giám sát trực tiếp. Sự nghiêm túc được thể hiện qua hành động, không chỉ dừng lại ở lời nói.

    Cán bộ giám sát và công nhân vận hành cần phải tham gia một cách tích cực ngay từ thời điểm ban đầu của chương trình SXSH. Công nhân là những người đóng góp đáng kể trong việc xác định, thực hiện và phát triển các giải pháp SXSH.

    Làm thế nào để đạt được sự cam kết của lãnh đạo về SXSH?

    • Ước tính giá trị của lượng tài nguyên mất mát dưới dạng chất thải;
    • Chỉ rõ hậu quả môi trường (và tính pháp lý) của việc phát sinh dòng thải này; và
    • Nhấn mạnh việc sản xuất sạch hơn có thể cải thiện hiện trạng như thế nào.

    Theo VNCPC

    Khoáng sản chế biến thành sản phẩm khác sẽ không bị đánh thuế VAT

    0

    Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 146/2017/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số quy định về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, trong đó có sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa chế biến thành sản phẩm khác.

    Cụ thể, sản phẩm xuất khẩu đó là hàng hóa được chế biến trực tiếp từ nguyên liệu chính là tài nguyên, khoáng sản có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản xuất sản phẩm trở lên.

    Các trường hợp được hưởng thuế VAT bằng 0% được cụ thể hoá là: Sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh “trực tiếp khai thác và chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến” mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu.

    Thứ hai là sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản do cơ sở kinh doanh “mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến” mà trong quy trình chế biến đã thành sản phẩm khác sau đó lại tiếp tục chế biến ra sản phẩm xuất khẩu.

    Thứ 3 là sản phẩm xuất khẩu được chế biến từ nguyên liệu chính “không phải là tài nguyên, khoáng sản”, (tài nguyên, khoáng sản đã chế biến thành sản phẩm khác) do cơ sở kinh doanh mua về chế biến hoặc thuê cơ sở khác chế biến thành sản phẩm xuất khẩu.

    Ngoài các quy định về không đánh thuế VAT, Nghị định 146 quy định về hoàn thuế VAT. Cụ thể, hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu vào khu phi thuế quan, xuất khẩu ra nước ngoài, có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ từ 300 triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế VAT theo tháng, quý.

    Trường hợp trong tháng, quý số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ chưa đủ 300 triệu đồng thì được khấu trừ vào tháng, quý tiếp theo.

    Trường hợp không được hoàn thuế VAT khi DN có hàng hóa nhập khẩu sau đó xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải quan. Hàng hóa xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa bàn theo quy định pháp luật hải quan.

    Theo Dân trí