23 C
Hanoi
Thứ Bảy, Tháng mười một 8, 2025
More
    Home Blog Page 399

    Cách xem cảnh báo ô nhiễm không khí trên smartphone

    Nếu không có thời gian xem mức độ ô nhiễm không khí trên website, bạn có thể tải một trong số các ứng dụng dưới đây về điện thoại để xem bất kỳ lúc nào và có biện pháp đối phó phù hợp.

    1. Air Quality | AirVisual: Tải về cho Android

    2. Air Matters: Tải về cho iPhone

    3. Air Quality Index BreezoMeter: Tải về cho Android và iPhone

    4. Air Quality: Real time AQI: Tải về cho Android

    5. Air Quality Index Near Me: Tải về cho Android

    6. AirNow: Tải về cho Android

    Người dân nên theo dõi chất lượng không khí qua các trạm đo trên cổng thông tin điện tử thành phố Hà Nội (tại đây) hoặc mạng quan trắc của Tổng cục Môi trường (tại đây). Bản đồ sẽ cho chúng ta biết chỉ số AQI của từng khu vực cụ thể cùng thông tin chi tiết.

    Theo đó, giá trị AQI từ 0-50 là Tốt, không ảnh hưởng đến sức khỏe; từ 51-100 là Trung bình, nhóm nhạy cảm nên hạn chế thời gian ở ngoài; từ 101-200 là Kém, nhóm nhạy cảm cần hạn chế thời gian ở ngoài; 201-300 là Xấu, nhóm nhạy cảm tránh ra ngoài, những người khác hạn chế ở ngoài; từ 301: Nguy hại, mọi người nên ở trong nhà. Nhóm nhạy cảm bao gồm trẻ em, người già và những người mắc bệnh hô hấp.

    Theo Zing.vn (18/2/2019)

    Mỹ phát triển lá nhân tạo giúp chống biến đổi khí hậu

    0

    Các nhà khoa học Mỹ đã cải tiến lá nhân tạo trên cơ sở công nghệ truyền thống giống như lá thực vật, có khả năng đồng hóa carbon dioxide trực tiếp từ không khí và biến carbon dioxide thành nhiên liệu hiệu quả cao hơn gấp 10 lần so với các hệ thống tự nhiên, có thể góp phần giảm nồng độ CO2 trong không khí, giúp ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu.

    Theo tạp chí ACS Sustainable Chemistry & Engineering, các nhà khoa học Mỹ lần đầu tiên tạo ra được một hệ thống quang hợp nhân tạo có thể sử dụng trực tiếp carbon dioxide từ không khí, thay vì ở dạng lỏng. Thành tựu mang lại hy vọng cho việc nhanh chóng áp dụng vào thực tế.

    Lá nhân tạo là hệ thống được các nhà khoa học thiết kế để thực hiện các quá trình tương tự như quang hợp tự nhiên. Kết quả là cũng giống như ở thực vật, lá nhân tạo thu đươc hydrocarbon và oxy từ ​​nước và carbon dioxide bằng cách sử dụng năng lượng mặt trời. Tuy nhiên, cho đến nay, tất cả chỉ được thực hiện trong điều kiện phòng thí nghiệm, vì các giải pháp đều thiết kế để sử dụng carbon dioxide tinh khiết từ các bình chứa dưới áp suất.

    Sơ đồ minh họa hệ thống quang hợp nhân tạo – Ảnh : Meenesh Singh

    Nhiều nhà nghiên cứu hy vọng rằng việc sử dụng rộng rãi công nghệ này trong tương lai có thể góp phần giảm nồng độ CO2 trong không khí, giúp ngăn chặn tình trạng biến đổi khí hậu.

    Trong công trình nghiên cứu mới, các nhà khoa học ở Đại học Illinois (Mỹ) đã đề xuất cải tiến lá nhân tạo sao cho giống như lá thực vật, có khả năng đồng hóa carbon dioxide trực tiếp từ không khí và biến carbon dioxide thành nhiên liệu hiệu quả cao hơn gấp 10 lần so với các hệ thống tự nhiên.

    Các nhà khoa học đã đưa hệ thống quang hợp nhân tạo vào một thùng nhựa đặc dụng trong suốt chứa đầy nước bảo đám khả năng nước bốc hơi khi bị nung nóng bởi ánh sáng và khi đi qua màng có thể tóm bắt có chọn lọc carbon dioxide từ không khí.

    Nhà nghiên cứu Meenesh Singh giải thích rằng sau khi bao quanh chiếc lá nhân tạo trên cơ sở công nghệ truyền thống bằng lớp màng đặc biệt, toàn bộ hệ thống đã sẵn sàng hoạt động ngoài trời như lá tự nhiên.

    Khi phát triển ý tưởng, các nhà khoa học chỉ sử dụng các vật liệu và công nghệ sẵn có, khi kết hợp lại, chúng cho phép hình thành lá nhân tạo có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc giảm lượng khí nhà kính trong khí quyển.

    Theo tính toán của các nhà khoa học, 360 lá được tạo ra bằng công nghệ mới với kích thước lá 1,7m x 0,2m sẽ cho phép thu được khoảng 500kg carbon monoxide – cơ sở để sản xuất nhiên liệu tổng hợp. Một ngày, số lượng lá như vậy được đặt trên diện tích 500m2 sẽ làm giảm 10% nồng độ carbon dioxide trong vòng bán kính 100m từ các vị trí đặt lá nhân tạo.

    Theo Motthegioi.vn (15/2/2019)

    Thời trang và cái giá phải trả của môi trường

    Ngành công nghiệp thời trang là một trong những ngành công nghiệp sinh lời hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho tốc độ phát triển chóng vánh của ngành công nghiệp tỉ đô này chính là khoản chi phí môi trường khổng lồ.

    Từ một đời người, một đời áo

    Tỉ phú Jack Ma từng nói: “Bà tôi chỉ có một cái áo. Mẹ tôi có ba. Thế hệ con gái tôi có 50 cái trong tủ và một nửa trong số đấy chúng không bao giờ mặc”.

    Câu nói của Jack Ma đã đánh giá cực kỳ chính xác về xu thế của Ngành công nghiệpthời trang ngày nay và sự chuyển biến của ngành này.


    Thời trang của những năm tháng xa xưa. Ảnh: dieusinh.

    Tờ BBC cho biết, khoảng 70 năm về trước, thông thường các hàng thời trang toàn cầu phải mất đến năm hoặc tám tháng, thậm chí là hơn một năm mới cho ra mắt một loại sản phẩm mới. Bên cạnh đó, phần lớn những sản phẩm hàng hiệu của những công ty thời trang hàng đầu khi đó đều có chất lượng cực kì tốt và có tuổi đời sử dụng ít nhất là năm năm.

    Tuy vậy, đi đôi với chất lượng là cái giá cực đắt. Nhiều người phải mất một, thậm chí là hai hoặc ba tháng lương mới có thể mua nổi một cái quần jeans chính hãng hiệu Hermes hay một chiếc túi xách hiệu Gucci. Phần lớn người tiêu dùng vào thời đó không sắm nhiều quần áo hay phụ kiện thời trang mà chỉ dùng đi dùng lại những món đồ đã mua. Thậm chí, có trường hợp nhiều gia đình “truyền nhau” từ ba đời một chiếc áo khoác cũ để mặc vào mùa đông.

    Điều này đã góp phần tạo nên vòng tuần hoàn quần áo cực kì ổn định. Trong vòng tuần hoàn này, số lượng quần áo dư ít hơn nhiều so với lượng người tiêu dùng. Quần áo dư thừa hầu hết đều đã rất cũ và khi được bỏ ra, những món đồ này được đưa đến tay người nghèo và được tiếp tục tái sử dụng trong vài năm tiếp theo.

    Vào thời kì 70 năm trước, quần áo dư là một khái niệm vẫn còn xa lạ và ngành thời trang nằm trong số những ngành công nghiệp ít gây ô nhiễm nhất trên thế giới.

    Đến một đời người, một “rừng” áo

    Mọi chuyện chỉ thay đổi kể từ khi xu thế thời trang nhanh xuất hiện vào những năm 1960. Sau đó, sự ra đời của hãng thời trang nhanh Zara ra đời cùng những “đàn em” kế cận của nó như H&M, Mango và Bershka đã làm thay đổi mãi mãi bộ mặt của ngành công nghiệp thời trang.


    Những bộ cánh thời trang đắt tiền này có lẽ chỉ được mặc một vài lần. Ảnh: The Times.

    Dựa trên thông tin từ tờ Southchinamorningpost, nhờ vào nguồn lao động giá rẻ tại châu Á và sự ra đời của những loại vật liệu bền, ít tốn chi phí, hầu hết sản phẩm thuộc xu hướng thời trang nhanh đều có giá khá rẻ, hợp túi tiền người tiêu dùng từ mọi tầng lớp. Không chỉ thay đổi mẫu mã, sản phẩm liên tục, những hãng này cứ một tháng sẽ cho ra mắt sản phẩm mới và thường hạn chế số lượng, tạo cảm giác hàng “độc”, không mua sẽ hết.

    Chính những điều này đã khiến cho hàng tỉ người trên thế giới hằng tháng, thậm chí hàng tuần sẵn sàng móc hầu bao lùng mua những chiếc áo, chiếc quần hàng hiệu mà cả đời họ chẳng bao giờ thèm mặc mà chỉ nhằm bắt kịp xu thế thời trang trên thế giới, để khỏi bị “tụt hậu” so với bạn bè.

    Và cái giá phải trả của môi trường…

    Giống như Jack Ma đã nói, họ sẵn sàng mua 50 chiếc áo trong tủ nhưng chỉ mặc một nửa trong số đó. Kết cục là những chiếc áo, chiếc quần chỉ được mặc một hoặc hai lần đó sẽ bị chính người tiêu dùng đào thải, được đưa ra bãi rác để có chỗ cho những món đồ thời trang mới toanh khác trong tủ quần áo của họ.


    Rác thời trang- cái giá môi trường phải trả không hề rẻ. Ảnh: DW.

    Số lượng quần áo được sản xuất ra quá nhiều cộng với xu hướng thời trang thay đổi liên tục đã phá vỡ vòng tuần hoàn quần áo và tạo ra lượng đồ dư thừa khổng lồ. Đó là chưa kể hàng tấn những lô hàng tồn kho từ các hãng thời trang.

    Theo như trang Edgexpo, chỉ trong năm 2018, đã có hơn 500 triệu tấn áo quần, phụ kiện thời trang được thải ra và chỉ 30% trong số đó được tái chế. Điều đó đồng nghĩa với việc 70% số lượng quần áo dư thừa sẽ được chôn trong bãi rác công cộng hoặc đi vào lò thiêu rác.

    Tuy nhiên, rác thải thời trang vốn không dễ tiêu hủy. Tờ báo uy tín của Mỹ Huffingtonpost đã chỉ ra rằng, tất cả những món đồ thời trang trước khi ra lò đều phải trải qua giai đoạn ngâm, tẩy rửa, nhuộm bằng vô số các loại hóa chất.

    Khi được đem chôn, những hóa chất độc hại trong quần áo và phụ kiện thời trang vẫn tồn tại rất lâu và ngấm vào trong đất, thậm chí là cả nguồn nước. Ngay cả khi được đem đi đốt, những chất độc này vẫn không bị tiêu hủy hoàn toàn mà lẩn vào trong không khí.

    Với tổng số doanh thu toàn cầu hơn 2,5 nghìn tỉ USD/năm, thời trang là ngành có quy mô rất lớn và tiếp tục phát triển như vũ bão. Tuy nhiên, ngoài cái giá “khủng” mà những người tiêu dùng “sành điệu” phải trả, cái giá của môi trường chung của nhân loại phải trả có thể còn đắt hơn nhiều…

    Theo Motthegioi.vn (13/2/2019)

    Nguy cơ ngộ độc từ thức ăn lâu ngày

    Theo báo cáo tổng hợp của Bộ Y tế, trong kỳ nghỉ Tết vừa qua đã có hơn 3.700 ca khám, cấp cứu do ngộ độc thức ăn, rối loạn tiêu hóa. Số các trường hợp khám, cấp cứu do ngộ độc thức ăn và rối loạn tiêu hóa chiếm 1% trong tổng số khám, cấp cứu.

    Tích trữ thực phẩm chưa đúng cách

    Trong số những ca khám nêu trên, có gần 900 trường hợp được xác định là ngộ độc/say rượu, bia. Có hơn 800 trường hợp ngộ độc thức ăn tự chế biến (tăng 23%) so với năm trước.

    Đặc biệt, có 2 ca tử vong do ngộ độc thuốc trừ sâu (tự tử). So với cùng kỳ của Tết Mậu Tuất, số ca khám, cấp cứu do ngộ độc thức ăn/rối loạn tiêu hóa giảm 14%, số ca ngộ độc rượu, bia giảm 19%, tuy nhiên số ca ngộ độc thức ăn tự chế biến tăng 19%.

    Sau kỳ nghỉ Tết Nguyên đán dài ngày, thông thường nhiều người thường có thói quen sử dụng thức ăn được tích trữ từ trước Tết; thức ăn để chung các loại sống -chín trong tủ lạnh… không đảm bảo vệ sinh, làm gia tăng nguy cơ rối loạn tiêu hóa, ngộ độc thực phẩm gây ảnh hưởng không nhỏ đến sức khoẻ.

    Theo ông Lâm Quốc Hùng- Trưởng phòng Giám sát ngộ độc thực phẩm, Cục An toàn thực phẩm (Bộ Y tế), do đặc thù thời tiết dịp Tết nắng nóng, độ ẩm cao khiến các loại hạt hướng dương, lạc, đậu hay bánh chưng rất dễ bị nấm mốc, sinh ra độc tố aflatoxin, gây nguy hiểm cho sức khỏe con người.

    Tuy nhiên, nhiều người hay có thói quen rửa nấm mốc, rồi lại sử dụng. Thậm chí, nhiều gia đình vẫn cắt phần đầu bánh chưng bị nấm mốc, rồi rán ăn bình thường. Nhìn bên ngoài tưởng ổn nhưng có thể độc tố đã ngấm sâu vào thực phẩm, tiềm ẩn nhiều hệ luỵ khó lường.

    BS Trần Quốc Khánh – BV Hữu nghị Việt Đức cho hay, thời điểm trong và sau Tết, có rất nhiều bệnh nhân nhập viện do rối loạn tiêu hóa mà nguyên nhân chính thường là do các gia đình có thói quen tích trữ thực phẩm để dùng trong mấy ngày Tết.

    Phần lớn các thực phẩm tồn dư đều là những thực phẩm có hàm lượng dinh dưỡng cao như: Bánh chưng, bánh tét, giò chả… trong khi thời tiết có nhiều thay đổi, là điều kiện lý tưởng để vi khuẩn sinh sôi. Thậm chí, nhiều người khi thấy giò chả bị nhớt bên ngoài vẫn còn mùi thơm đặc trưng nên vẫn cố ăn dẫn đến ngộ độc. Trường hợp ngộ độc nhẹ thì đau bụng, nặng thì tiêu chảy.

    Không nên ăn cố vì tiếc của

    Theo các chuyên gia y tế, để phòng chống ngộ độc thực phẩm sau Tết, người dân cần mạnh dạn loại bỏ các thực phẩm nghi ngờ ôi thiu, nhất là những thực phẩm đã chế biến sẵn như giò chả, thịt đông, những đồ chứa nhiều gia vị, đồ ăn nấu đi nấu lại nhiều lần…

    Bà Hoàng Thị Minh Thu- Phó Chi cục trưởng Chi cục An toàn, vệ sinh thực phẩm Hà Nội lưu ý, trước khi bảo quản thực phẩm cần lau dọn tủ lạnh sạch sẽ bằng nước ấm pha giấm. Với thực phẩm tươi sống cần được làm sạch và bảo quản ở ngăn đá để có thể giữ được lâu ngày.

    Đối với thức ăn nấu chín cần để nguội rồi đậy kín, cất vào tủ lạnh. Riêng đối với rau, sau khi bỏ lá sâu, lá nát, cắt bỏ phần rễ, thì rửa sạch cho vào túi, buộc kín, xếp vào ngăn tủ mát. Trái cây cũng nên rửa sạch, để ráo, sau đó cho vào túi, buộc kín trước khi đưa vào tủ lạnh.

    Với bánh chưng, Cục An toàn thực phẩm khuyến cáo, người dân không nên vì tiếc của mà cố ăn những chiếc bánh đã bị mốc, kể cả khi loại bỏ những phần mốc của bánh, nhưng phần còn lại của bánh chưng cũng không an toàn đối với người sử dụng.

    Ngoài ra, khi bảo quản thực phẩm không nên để thức ăn sống quá lâu trong tủ lạnh. Nhiều nghiên cứu cho thấy, việc để thức ăn trong tủ lạnh quá lâu, đặc biệt là thức ăn chín sẽ làm biến chất, giảm hàm lượng dinh dưỡng và sinh ra nhiều chất gây hại cho sức khỏe người dùng…

    Theo Đaidoanket.vn (15/2/2019)

    Các loài vi khuẩn có thể tái chế rác thải điện tử

    0

    Các loài vi sinh vật có thể giúp chúng ta tái chế kim loại quý từ rác thải điện tử.

    Rác thải điện tử đang gia tăng với tốc độ chóng mặt trên phạm vi toàn cầu. Theo báo cáo mới đây trong tháng 1 vừa qua của Diễn đàn kinh tế thế giới: “Có đến gần 50 triệu tấn rác thải điện tử mỗi năm – xấp xỉ bằng tổng khối lượng của tất cả tàu bay trên toàn thế giới đã từng được sản xuất, nhưng chỉ có 20% trong số đó được đem đi tái chế”.

    Báo cáo cũng chỉ ra rằng nếu không có bất kỳ biện pháp lâu dài nào được áp dụng thì chỉ đến năm 2050, số lượng rác thải điện tử sẽ đạt con số 120 triệu tấn, và đáng nói hơn là loại rác thải này vô cùng có hại cho sức khỏe và môi trường.

    Đối diện với thực tế này, các nhà khoa học luôn cố gắng tìm cách giải quyết. Kết quả mà họ đạt được vô cùng bất ngờ: Họ đã tìm thấy một vài chủng vi khuẩn có khả năng tái chế kim loại như vàng, bạc, Paladi, đồng và nhôm.

    Giải thích một cách ngắn gọn thì các nhà khoa học đưa vi khuẩn và chất thải điện tử vào chung trong một dung môi và sau một lúc, điều “vi diệu” sẽ xảy ra.

    Trong một bài viết đăng trên trang AIP Conference Proceedings vào năm 2017, các nhà nghiên cứu Singapore cho thấy loài vi khuẩn Chromobacterium violaceum có khả năng tái chế vàng có trong rác thải điện tử nhờ vào một loại enzyme đặc biệt có thể phân hủy các hợp chất. Kết quả của phản ứng này tạo ra muối vàng xyanua, và sau đó chỉ cần tách xyanua ra khỏi vàng.

    Để tăng tốc độ phản ứng, một nhóm nghiên cứu của trường Đại học Quốc gia Singapore đã tạo ra hai chủng vi khuẩn có khả năng tái chế được nhiều vàng hơn. Chủng tốt nhất có hiệu suất tái chế đạt 30% số vàng, trong khi chủng vi khuẩn tự nhiên chỉ có thể chiết xuất được 11,3%.

    Trên thực tế, tỉ lệ tái chế này là chưa cao khi so với phương pháp khác có thể tái chế toàn bộ số vàng, ví dụ như cách nung chảy rác thải điện tử. Thế nhưng phương pháp sử dụng vi khuẩn để tái chế vàng từ rác thải điện tử được xem là phương pháp thân thiện với môi trường hơn và hiệu suất tái chế này có thể cải thiện được.

    Các chủng vi khuẩn khác có tên đầy tính khoa học như Delftia acidovorans, Gluconobacter oxydans hay Cupriavidus metallidurans cũng có thể giúp giải phóng số kim loại quý có trong các thiết bị điện tử.

    Tuy nhiên trong bài báo đăng trên tạp chí khoa học PNSA, các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng vi khuẩn chỉ có thể hỗ trợ quá trình tái chế rác thải điện tử, không thể thay thế được các phương pháp tái chế khác.

    Theo Tapchicongthuong.vn (14/2/2019)

    7 vật liệu xây dựng xanh triển vọng thay đổi hoàn toàn thế giới

    Hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thì bê tông không còn là loại vật liệu duy nhất nữa. Sau đây chúng tôi sẽ mách bạn 7 vật liệu xây dựng xanh triển vọng thay đổi hoàn toàn thế giới.

    GrassCrete – Bê tông thực vật

    Loại vật liệu xây dựng xanh đầu tiên có triển vọng thay đổi thế giới đó chính là bê tông thực vật. Đây là phương pháp để tạo nên nền nhà, vỉa hè, những lối đi bộ, đường ô tô theo các kiểu khác nhau để cho những hệ thực vật, các loại cỏ phát triển. Ngoài việc sẽ giúp giảm đi bê tông thì việc sử dụng bê tông thực vật cũng giúp cải thiện thoát nước và hấp thụ nước mưa hiệu quả.

    Đất nện

    Đất nện là loại vật liệu tự nhiên nhất dưới chân của chúng tôi. Những bức tường bằng đất nện được nén chặt trong những khuôn gỗ sẽ được thay thế cho bê tông. Công nghệ sử dụng đất nện đã được nhiều người dùng trong nhiều năm. Ưu điểm là loại vật liệu này là sẽ rất bền. Để tạo độ vững chắc cho những ngôi nhà sử dụng loại vật liệu này thì người ra sẽ dùng những máy nén giúp nén đất với lõi tre hoặc cốt thép.

    HempCrete – Loại vật liệu được làm từ cây gai dầu

    Loại vật liệu này được làm từ những sợi gai dầu. Nhằm tạo ra những vật liệu giống với bê tông nhưng cứng và nhẹ thì người ta đã trộn những sợi cây gai dầu và vôi. Ưu điểm của loại vật liệu này là có khả năng linh hoạt, cách nhiệt một cách tự nhiên, siêu nhẹ nhưng nhược điểm của chúng lại thiếu ổn định về cấu trúc.

    Tre

    Tre cũng là loại vật liệu xanh có triển vọng sẽ thay đổi hoàn toàn thế giới. Qua hàng nghìn năm qua thì loại vật liệu truyền thống này đã trở nên quen thuộc với nhiều người trên thế giới. Tuy nhiên, hiện nay, tre là một loại vật liệu xây dựng thực sự đem đến nhiều hứa hẹn cho các tòa nhà. Tre có những ưu điểm như có trọng lượng nhẹ, độ bền cao cũng như khả năng tái tạo một cách nhanh chóng. Loại vật liệu này được dùng thay cho bê tông để làm khung tòa nhà nhất là ở những vùng có giao thông khó khăn.

    Nhựa tái chế

    Một loại vật liệu xanh có triển vọng thay đổi thế giới đó chính là nhựa tái chế. Loại vật liệu này ra đời nhằm thay cho việc chiết xuất, khai thác những thành phần mới. Những nhà nghiên cứu cũng đang chế tạo ra bê tông có thành phần là rác và nhựa tái chế. Với phương pháp này sẽ giúp giảm đi lượng khí thải trong nhà kính.


    Nhựa tái chế cũng là loại vật liệu có triển vọng thay đổi thế giới.

    Mycelium – vật liệu từ sợi nấm

    Loại vật liệu này được coi là vật liệu xây dựng trong tương lai. Cấu trúc của loại vật liệu này từ tự nhiên được tạo ra bởi cấu trúc gốc của sợi nấm. Nấm sẽ được trồng xung quanh hỗ hợp những vật liệu tự nhiên như rơm rạ sau đó sẽ được làm khô giúp tạo nên những viên gạch bền, nhẹ hoặc có hình thù khác.

    Ferrock – bê tông từ bụi thép

    Loại vật liệu này là Ferrock được coi là bê tông từ bụi thép. Đây cũng là vật liệu mới được nghiên cứu và dùng sản phẩm được tái chế để tạo nên vật liệu xây dựng có cấu trúc tương tự bê tông. Loại vật liệu này có khi còn bền vững hơn cả bê tông. Ngoài ra, loại vật liệu này cũng giúp hấp thụ CO2 khi làm cứng và khô. Bê tông từ bụi thép sẽ rất thân thiện với môi trường. Bên cạnh đó, loại vật liệu này cũng được đánh giá cao khi tái sử dụng phế thải của những ngành sản xuất khác như thủy tinh và thép.

    Trên đây là những vật liệu xây dựng xanh có triển vọng thay đổi hoàn toàn thế giới. Hi vọng đã cung cấp cho bạn những thông tin bổ ích.

    Thep Baophapluat.vn (13/2/2109)

    Có thể tạo ra xăng bằng không khí

    0

    Công ty năng lượng sạch Carbon Engineering của Canada đã hợp tác với các nhà khoa học của đại học Harvard (Mỹ) khám phá ra cách chiết xuất một loại nhiên liệu carbon trung tính bằng cách thu giữ carbon dioxide từ không khí và biến nó thành xăng tổng hợp.

    Quá trình này được gọi là Air to Fuels (A2F). Nguồn nhiên liệu này hứa hẹn sẽ không có khí thải nhà kính và lượng khí thải carbon bằng không.

    Nói một cách đơn giản là chiết xuất carbon dioxide (CO2) từ không khí, đưa nó qua các quá trình hóa học và tạo ra nhiên liệu hydrocarbon lỏng (Hydrocarbon là các hợp chất hữu cơ chỉ bao gồm hydro và carbon. Dầu và xăng là ví dụ của nhiên liệu hydrocarbon lỏng). Quá trình A2F tạo ra một phiên bản tổng hợp của nhiên liệu hydrocarbon lỏng.

    Không khí có thể tạo ra xăng trong tương lai.

    Các nhà nghiên cứu của Carbon Engineering sử dụng một thứ gọi là Công nghệ hút khí trực tiếp (DAC), hoạt động giống như các pin năng lượng mặt trời mới cho phép phân tách nước thành nhiên liệu hydro. Các nhà máy tái chế CO2 trích xuất CO2 từ không khí bằng cách sử dụng một tổ hợp khổng lồ của những cánh quạt, rồi kết hợp CO2 với hydrogen lỏng được tách ra từ nước.

    Tiếp theo, quá trình kết hợp CO2 với hydro sử dụng công nghệ độc quyền của công ty và nhiên liệu lỏng carbon trung tính như xăng hoặc diesel được sinh ra. Điều này nghĩa là người dùng không phải sửa đổi động cơ xe hiện tại của mình để sử dụng loại xăng tổng hợp này. Ngoài ra, CO2 có thể biến thành thể rắn lưu trữ để sử dụng dần.

    Việc hút không khí trực tiếp rất quan trọng bởi vì những phát hiện gần đây cho thấy gần như chúng ta không thể ngăn chặn nhiệt độ toàn cầu tăng hơn 1,5 độ C nếu không ứng dụng một số dạng công nghệ mới trên quy mô lớn.


    Tổ hợp khổng lồ của những cánh quạt dùng để trích xuất CO2 từ không khí.

    Tuy nhiên, có một vấn đề lớn với nhiên liệu thay thế của Carbon Engineering, cũng là thách thức của bất cứ phát minh nào về nguồn năng lượng mới, đó là chi phí sản xuất. Trong một bản báo cáo đánh giá năng lực sản xuất, công ty này đã chia sẻ rằng quy trình tổng hợp cho một tấn carbon dioxide sẽ mất khoảng 94 – 232 USD trong khi nguồn năng lượng hóa thạch chỉ vào khoảng 20 USD/thùng dầu thô, rẻ hơn rất nhiều so với công nghệ mới.

    Công ty tuyên bố rằng trong tương lai họ có thể sản xuất nhiên liệu tổng hợp với giá khoảng 1 USD/lít khi quy mô sản xuất tăng lên. Họ cũng đang làm việc để giảm chi phí bằng cách sử dụng các quy trình và công nghệ công nghiệp có sẵn thay vì chế tạo lại.

    Công ty Carbon Engineering thuộc sở hữu của nhiều nhà đầu tư tư nhân, trong đó có tỷ phú Bill Gates. Hiện tại, công nghệ này đang có được sự quan tâm đặc biệt của các ông lớn trong ngành khai thác dầu như tập đoàn Chevron và tập đoàn dầu khí Occidental.

    Geoff Holmes, Giám đốc phát triển kinh doanh tại Carbon Engineering chia sẻ: A2F (Air to Fuels) hoàn toàn khả thi vì nó cần đất và nước ít hơn 100 lần so với nhiên liệu sinh học, và có thể được thu nhỏ và đặt ở bất cứ đâu. Nhưng để phổ biến thì sẽ phải giảm chi phí xuống ít hơn so với chi phí khai thác dầu hiện nay, và có thể sẽ khó khăn hơn khi vận động các nước tin và chuyển sang sử dụng loại nhiên liệu mới này.

    Theo Vietnamnet.vn (14/2/2019)

    Sắp ban hành tiêu chuẩn về đô thị thông minh tại Việt Nam

    Thông tin trên được ông Nguyễn Văn Khôi – Quyền Vụ trưởng Vụ Tiêu chuẩn (Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng) cho biết khi đề cập đến xây dựng kế hoạch nền tảng phát triển đô thị thông minh bền vững tại Việt Nam.

    Theo ông Khôi, tiêu chuẩn kỹ thuật là cơ sở khoa học kỹ thuật hỗ trợ cho việc quy hoạch, xây dựng, kết nối vận hành các cấu phần của đô thị thông minh vận hành hiệu quả và hạn chế rủi ro. Nhận thức được tầm quan trọng của tiêu chuẩn hóa trong thúc đẩy phát triển đô thị thông minh, hiện Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng đã có kế hoạch và đang nghiên cứu, xây dựng các tiêu chuẩn về đô thị thông minh trên cơ sở các tiêu chuẩn quốc tế, nước ngoài có uy tín như ISO, IEC, ITU, BSI… tập trung vào những vấn đề như: Các nguyên tắc áp dụng Hệ thống quản lý áp dụng trong đô thị thông minh; Các chỉ số đánh giá Đô thị thông minh; Báo cáo kỹ thuật về cơ sở hạ tầng cho Đô thị thông minh, Chỉ số hài hòa để làm chuẩn cho tính thông minh của cơ sở hạ tầng; Cơ sở hạ tầng cho Đô thị thông minh – Khung thông dụng cho việc phát triển và vận hành đô thị.


    TP.Hạ Long đang là địa phương tiên phong của tỉnh Quảng Ninh xây dựng thành phố thông minh.

    Dự thảo tiêu chuẩn khung về đô thị thông minh:

    ISO 37100:2016, Đô thị và cộng đồng bền vững – Từ vựng:

    Các thuật ngữ liên quan đến: Phát triển bền vững, khả năng phục hồi và sự thông minh; tổ chức, đô thị và cộng đồng; quản lý; chất lượng và sự phù hợp; chỉ số và chuẩn đo; hạ tầng và dịch vụ.

    ISO 37104, Phát triển bền vững cho cộng động – Hướng dẫn thực hiện trong thực tiễn tại các đô thị:

    Hướng dẫn về áp dụng và duy trì hệ thống quản lý sự phát triển bền vững dựa trên các nguyên tắc của ISO 37101, kể cả ISO 37106 và ISO 37120;

    Thiết lập khuôn khổ phương pháp luận đánh giá có hệ thống về các thành tựu của sự phát triển bền vững ở các đô thị.

    ISO 37106:2018, Đô thị và cộng đồng bền vững – Hướng dẫn thiết lập mô hình hoạt động của đô thị thông minh cho cộng đồng bền vững:

    Hướng dẫn cho các nhà lãnh đạo của các đô thị và cộng đồng thông minh về cách thức phát triển mô hình hoạt động mở, hợp tác, lấy người dân làm trung tâm và sử dụng kỹ thuật số cho đô thị của mình để đưa vào thực hiện tầm nhìn của đô thị cho tương lai bền vững;

    Tập trung vào các quá trình cho phép sử dụng sáng tạo công nghệ và dữ liệu kết hợp với sự thay đổi về tổ chức để có thể giúp cho mỗi đô thị có được tầm nhìn cụ thể cho tương lai bền vững theo những cách thức có hiệu lực, hiệu quả và linh hoạt hơn.

    Cung cấp các công cụ mà các đô thị có thể triển khai khi thực hiện tầm nhìn, chiến lược và chương trình chính sách đã được các đô thị xây dựng sau khi áp dụng ISO 37101;

    Các đô thị chưa cam kết triển khai áp dụng hệ thống quản lý theo ISO 37101 cũng có thể sử dụng toàn bộ hoặc một phần nội dung quy định của tiêu chuẩn này.

    ISO 37122, Phát triển bền vững cho cộng đồng – Các chỉ số đối với đô thị thông minh:

    ISO 37122 bổ sung cho ISO 37120 và thiết lập các chỉ số và định nghĩa về các chỉ số, các phương pháp luận để đo lường và xem xét các khía cạnh và thực hành nhằm giúp các đô thị cải thiện kết quả bền vững về xã hội, kinh tế và môi trường.

    PAS 183:2017 Đô thị thông minh – Hướng dẫn thiết lập khung ra quyết định để chia sẻ dữ liệu và dịch vụ thông tin:

    Hướng dẫn về việc thiết lập khung ra quyết định đối với việc chia sẻ dịch vụ dữ liệu và thông tin tại các đô thị thông minh;

    Hỗ trợ một cách tiếp cận minh bạch để đưa ra các quyết định và tạo lập các thỏa thuận chia sẻ dữ liệu cụ thể nhằm nhận thức đầy đủ về các lợi ích và giá trị của dịch vụ dữ liệu và thông tin trong một đô thị.

    Hiện dự thảo lần 5 tiêu chuẩn Việt Nam đã hoàn thiện trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm và các quy định tổ chức tiêu chuẩn thế giới và đang lấy ý kiến các bộ ngành.

    Theo Uyên Chi (Vietq.vn)/13/02/2019

    Năm 2019 có thể là năm xảy ra nắng nóng kỷ lục?

    Theo dự báo của các nhà khoa học, năm 2019 rất có thể sẽ là năm mà tình trạng nắng nóng tiếp diễn, thậm chí tạo ra kỷ lục mới.

    Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), cơ quan thuộc Liên hợp quốc (LHQ) vừa công bố thông tin về những năm được coi là năm nóng nhất kể từ khi thế giới bắt đầu cập nhật hồ sơ nhiệt độ toàn cầu.

    Cụ thể, theo công bố của WMO, trong các kỷ lục mà cơ quan này ghi nhận từ thế kỷ 19, năm 2016 là năm nóng nhất, do tác động của El Nino (tình trạng nóng lên bất thường của nước biển thuộc vành đai xích đạo rộng lớn) ở Thái Bình Dương, tiếp theo là năm 2015 và 2017 và 2018 ở vị trí thứ tư.

    Đặc biệt, nhiệt độ bề mặt trung bình toàn cầu trong năm 2018 cao hơn 1 độ C so với thời kỳ tiền công nghiệp. Tổng Thư ký WMO, ông Petteri Taalas nhấn mạnh mức độ ấm lên trong 4 năm qua là khác thường, cả trên đất liền và đại dương.

    Cũng theo các nhà khoa học, nhiệt độ tăng cao cũng là nguyên nhân góp phần làm gia tăng số các hiện tượng thời tiết cực đoan như bão, hạn hán và lũ quét.

    Ông Taalas nói: “Những hiện tượng thời tiết khắc nghiệt xảy ra đúng với dự đoán về biến đổi khí hậu và đây là thực trạng mà chúng ta cần phải đối phó trong tương lai”.

    Các báo cáo tương tự về xu hướng khí hậu do Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ (NASA) công bố và Cơ quan Khí quyển và đại dương quốc gia Mỹ (NOAA) cũng khẳng định rằng 2018 là năm nóng thứ tư liên tiếp trong lịch sử hiện đại. Lớp băng bao phủ tại cả hai đầu Bắc Cực và Nam Cực đều được ghi nhận mức thấp.

    Thời tiết cực đoan năm 2018 cũng tạo ra cháy rừng ở California (Mỹ) và Hy Lạp, hạn hán ở Nam Phi và lũ lụt ở Kerala, Ấn Độ. Mức phát thải khí nhà kính nhân tạo đạt kỷ lục, chủ yếu là do việc đốt nhiên liệu hóa thạch.

    Trong khi đó, báo cáo trên còn cho biết, năm 2018, có tới 14 thảm họa thiên tai gây thiệt hại trên 1 tỷ USD. Tổng số 14 thảm họa trên đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 247 người và gây thiệt hại ít nhất 91 tỷ USD.

    Cơ quan LHQ cũng cho biết năm 2019 sẽ lại là một năm kỷ lục mới, với trường hợp Australia đã trải qua tháng nóng nhất trong lịch sử được ghi nhận. WMO cảnh báo những cơn sóng nhiệt, những giai đoạn thời tiết nóng nhất đi kèm với độ ẩm cao, đang trở nên thường xuyên hơn do hậu quả của tình trạng biến đổi khí hậu.

    Theo Vietq.vn (8/2/2019)

    Hợp chất đắt hơn vàng 3 triệu lần được tìm thấy từ cây lúa

    Hợp chất Momilactone A và B do nhà khoa học người Việt phát hiện, phân lập thành công từ trấu và gạo có giá 1.25 triệu USD/0,1 mg.

    Ngày 29/1, PGS Trần Đăng Xuân, Trưởng phòng thí nghiệm Sinh lý thực vật và Hóa sinh, Đại học Hiroshima (Nhật Bản) lần đầu tiên công bố trên tạp chí khoa học quốc tế nổi tiếng Molecules của MDPI về việc tìm thấy sự hiện diện của hai hợp chất Momilactone A và B (MA và MB) trong gạo trắng.

    Hợp chất này trước đó từng được trang điện tử Carbosynth.com, một công ty chuyên về các sản phẩm hóa sinh nổi tiếng của Anh bán với giá 1.25 USD cho 0,1 mg. Nghĩa là 1 g của hợp chất này có giá 125 triệu USD, đắt gấp ba triệu lần giá trị 1g vàng.

    Sở dĩ hợp chất có giá đắt đỏ như vậy vì rất hiếm phòng thí nghiệm thành công trong việc tách chiết. Cũng vì giá của nó quá đắt nên hiếm có phòng thí nghiệm nào đủ điều kiện tài chính để mua MA và MB, do đó các nghiên cứu sâu về hợp chất này cũng vắng bóng trên thế giới.

    Chính vì vậy sau khi tìm thấy hai hợp chất quý này trong gạo và trấu, ông và cộng sự tại phòng thí nghiệm Sinh lý Thực vật và Sinh hóa của Đại học Hiroshima đã ngày đêm chưng cất và tinh lọc. Từ 20 kg vỏ trấu, sau gần 3 tháng, khoảng 300 mg MA và 200 mg MB (chiếm khoảng 1/100 -150 nghìn trọng lượng vỏ trấu) được tinh chất.

    Hai hợp chất Momilactone A và B được chiết xuất tại phòng thí nghiệm Sinh lý Thực vật và Sinh hóa, Đại học Hiroshima.

    Phát kiến của PGS Trần Đăng Xuân và cộng sự trong năm 2018 là phát triển phương pháp đo đạc và phát hiện MA và MB cực nhạy so với các phương pháp thông thường tại phòng thí nghiệm, cho phép đo hàm lượng MA và MB trong các bộ phận của cây lúa với hàm lượng thấp tới nano gram (1/1 tỷ gam). Điều đó cho phép phát hiện sự hiện diện của MA và MB trong gạo trắng ăn hàng ngày có hàm lượng 2.07 và 1.06 miligram/g trong gạo Nhật Bản.

    Sau khi tách chiết thành công, các thí nghiệm sinh lý và sinh hóa, kiểm tra hoạt tính chống tiểu đường, chống béo phì và gút dựa trên các thí nghiệm in vitro về ức chế hoạt động của các enzyme chính từ hợp chất này cũng được nhóm nghiên cứu thực hiện. Kết quả cho thấy cả MA và MB đều có hoạt tính ức chế hoạt tính cao vượt trội so với chất ức chế chuẩn như acarbose – chất được bán thương mại và sử dụng rộng rãi trong điều trị tiểu đường.

    Hợp chất MA và MB cũng thể hiện hoạt tính sinh học và hóa học mạnh mẽ ở nồng độ phản ứng thấp hơn so với một hợp chất phenolics nổi tiếng là gallic acid. Hơn nữa, sự kết hợp của MA:MB theo tỷ lệ 4:1 cho kết quả ức chế tối ưu enzyme xanthine oxidase liên quan đến chống bệnh gút.

    PGS Trần Đăng Xuân đưa ra kết luận: “MA và MB là các hợp chất tiềm năng chống tiểu đường mới, chống béo phì và gút tiềm năng thông qua khả năng ức chế hoạt động của các enzymes liên quan đến các bệnh này. Đây là những hoạt tính sinh học quan trọng, lần đầu tiên được nghiên cứu trên MA và MB”.

    Dựa vào kết quả nghiên cứu in vitro, PGS Trần Đăng Xuân và cộng sự khẳng định việc ăn một lượng gạo nhất định hàng ngày có thể giúp giảm nguy cơ bệnh gút, béo phì và tiểu đường. Kết luận này thay đổi quan niệm thông thường rằng ăn gạo làm đẩy mạnh nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cho con người.

    Trước đó, từ năm 1973, nhà khoa học người Nhật Tadahiro Kato và các cộng sự từng tìm thấy hai hợp chất quý này trong vỏ trấu. Suốt hơn 40 năm qua, các nhà khoa học trên thế giới đều tin rằng MA và MB là hợp chất thứ cấp (Secondary metabolite) do lúa sinh ra để ức chế hoạt động của thực vật cạnh tranh với cây lúa.

    Tuy nhiên các nghiên cứu của PGS Trần Đăng Xuân sau đó được công bố đã làm thay đổi quan niệm này. Đó là công bố trong năm 2007 (MA và MB có khả năng chống oxi hóa, ức chế sinh khuẩn và chống khuẩn trên tạp chí Journal of Plant Interactions – hạng Q2 chuẩn của ISI) và năm 2016 (MA và MB đóng vai trò trong khả năng chịu mặn và chịu hạn của lúa mạnh mẽ hơn nhiều so với khả năng ức chế sinh trưởng thực vật như nhà khoa học Nhật Bản Tadahiro Kato và nhiều nhà khoa học trên thế giới khác đã từng công bố trong vòng hơn 40 năm qua).

    Công bố này gây sự chú ý lớn trong giới khoa học về sinh lý thực vật trên thế giới, đặc biệt trên cây lúa. PGS Trần Đăng Xuân cũng khẳng định, hai hợp chất MA và MB còn có khả năng kì diệu hơn nữa.

    Sẽ nghiên cứu tạo giống gạo Việt Nam có hàm lượng MA, MB cao

    Nhiều năm qua trên thế giới chỉ có vài phòng thí nghiệm có thể tinh chế MA và MB nhưng với số lượng tính trên milligram (một phần nghìn gram) với quá trình tinh lọc vô cùng phức tạp. Các phương pháp trước đây chỉ tách chiết được số lượng MA và MB từ máy sắc khí lỏng (HPLC), sắc khí giấy (Paper Chromatography), hoặc sắc khí cột (Column Chromatograpy) với hiệu suất thấp và độ tinh chế không cao.

    PGS Trần Đăng Xuân cho biết, trong hai năm từ 2016 và 2017, ông và nhóm nghiên cứu bắt đầu tìm cách nghiên cứu tinh lọc hai hợp chất MA và MB từ vỏ trấu của lúa. Do chúng có cấu trúc phức tạp và khá tương tự nhau, việc tách chiết và tinh chế riêng biệt hai chất rất khó khăn.

    Tuy nhiên ông cùng với các nhà khoa học đến từ Ấn Độ, các nghiên cứu sinh Tiến sĩ người Việt Nam tại phòng thí nghiệm Sinh lý Thực vật và Sinh Hóa tại Đại học Hiroshima, dựa trên kinh nghiệm của Ấn Độ để phát triển riêng phương pháp tinh lọc MA và MB từ vỏ trấu sử dụng nhiệt độ, áp suất từ các dung môi thông dụng trong phòng thí nghiệm. Phương pháp này cho phép chiết xuất hai hợp chất với độ tinh khiết cao hơn và lượng tinh thu nhiều hơn.

    Các kết quả này được công bố trên tạp chí khoa học quốc tế (29/1/2019) chỉ sau một tuần, nhiều công ty tại châu Âu, Mỹ, và Nhật Bản đã đề xuất đầu tư và hợp tác nghiên cứu về hai hợp chất MA và MB, tạo các sản phẩm từ gạo có khả năng giảm thiểu tiểu đường, bệnh gút và béo phì, cũng như việc đặt mua hai hợp chất MA và MB.

    PGS Trần Đăng Xuân cho biết, hiện ông và cộng sự muốn tập trung sâu hơn nữa vào việc nghiên cứu các hoạt tính hóa sinh, y và dược của MA và MB như chống các loại ung thư, bệnh mất trí nhớ… và triển khai các thí nghiệm in vivo trên chuột và thí nghiệm lâm sàng, nhằm tìm hiểu rõ vai trò thực sự của hai hợp chất quý gấp nhiều lần vàng trong cây lúa.

    “Các đề xuất trên chúng tôi chưa trả lời. Việc bán lại bản quyền cho các công ty Nhật Bản, Mỹ hoặc châu Âu có thể mang lại lợi nhuận cao cho bản thân mình và các cộng sự, nhưng giá trị của khoa học mang lại cho nhân loại thì vô giá và sống mãi với thời gian”, PGS Xuân nói về lý do chưa hợp tác với các đơn vị đặt lời mời.

    Ông cũng tiết lộ sẽ kết hợp với một số công ty của Nhật Bản và các cơ quan nghiên cứu Việt Nam như Viện di truyền Nông nghiệp để sản xuất ra các giống lúa có hàm lượng MA và MB cao gấp nhiều lần thông thường, nhằm tạo ra sản phẩm gạo Made in Việt Nam nhưng có thể được bán với giá cao trong và ngoài nước với các tính năng giảm thiểu các bệnh nan y đang xảy ra tại Việt Nam và thế giới.

    Ông tin tưởng, sau vài năm nữa, những sản phẩm thương mại đầu tiên từ cây lúa Việt Nam có chứa hàm lượng cao hai hợp chất MA và MB sẽ được người Việt Nam, Nhật Bản, châu Âu và Mỹ biết đến. PGS Trần Đăng Xuân hy vọng công trình sẽ góp phần nâng cao vị thế lúa gạo của Việt Nam trên thế giới, và sớm có thể tạo nên các sản phẩm là niềm tự hào của người Việt.

    Theo VnExpress.net (11/2/2019)