Thời gian qua, dư luận vẫn còn cái nhìn thiếu thiện cảm về nhiệt điện than, thậm chí nhiều địa phương không ủng hộ. Vấn đề cần đặt ra là cần hiểu đúng, phản ánh đúng và công bằng về vai trò của nhiệt điện than đối với hệ thống điện cũng như phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Cần phát triển nguồn điện hài hòa
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh, đến năm 2030, cả nước sẽ có hơn 70 nhà máy nhiệt điện than. Dự kiến giai đoạn 2018-2022, tổng công suất các nguồn điện đưa vào vận hành là 34.864MW, trong đó nhiệt điện than chiếm 26.000MW. Nhưng, thực tế tới nay mới chỉ có 7 dự án nhiệt điện than đã được khởi công và đang triển khai xây dựng với tổng công suất 7.860MW, còn thiếu 18.000MW theo yêu cầu.
Nhà máy Nhiệt điện Vĩnh Tân 2
Trong bối cảnh áp lực tăng trưởng điện tới năm 2030 rất lớn, các nguồn thủy điện và năng lượng tái tạo chưa đáp ứng được đòi hỏi nhu cầu năng lượng phục vụ phát triển kinh tế – xã hội thì việc có nên phát triển thêm các nhà máy nhiệt điện than hay không là vấn đề đang được dư luận hết sức quan tâm.
Tuy nhiên, thời gian qua, dư luận vẫn còn cái nhìn thiếu thiện cảm về nhiệt điện than, thậm chí nhiều địa phương không ủng hộ. Vấn đề cần đặt ra là cần hiểu đúng, phản ánh đúng và công bằng về vai trò của nhiệt điện than đối với hệ thống điện cũng như phát triển kinh tế – xã hội đất nước.
Phát biểu tại Hội thảo “Cần có cái nhìn đúng về nhà máy nhiệt điện than” tổ chức tại Hà Nội sáng ngày 13-12-2018, Thứ trưởng Bộ Công Thương Cao Quốc Hưng cho biết, quan điểm chỉ đạo của Chính phủ là phải bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, trong đó việc cung cấp đủ điện phục vụ phát triển kinh tế – xã hội là nhiệm vụ quan trọng.
Trong giai đoạn 2016-2030, dự báo tốc độ tăng trưởng GDP với kịch bản cơ sở bình quân 7,0%, tương ứng với tốc độ tăng trưởng điện thương phẩm toàn quốc ở phương án cơ sở giai đoạn 2016-2020, 2021-2025 và 2026-2030 tương ứng 10,6%, 8,5% và 7,5%.
Theo Thứ trưởng Cao Quốc Hưng, để đáp ứng nhu cầu điện cần phát triển nguồn điện hài hòa nhất là trong bối cảnh các thủy điện vừa và lớn cơ bản đã khai thác hết, các nguồn điện khác còn hạn chế. Đơn cử như nguồn khí, hiện tổng công suất nhiệt điện khí (dùng khí đốt trong nước) đưa vào cân đối dài hạn chỉ dừng ở mức trên 12.000MW với sản lượng điện khoảng 63 tỉ kWh/năm.
Nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng
Trao đổi với các phóng viên, ông Trương Duy Nghĩa – Chủ tịch Hiệp hội Khoa học kỹ thuật nhiệt Việt Nam nhận định, nhiệt điện than có vai trò rất lớn trong hệ thống điện Việt Nam. So với Quy hoạch điện VII điều chỉnh thì tình hình triển khai phát triển nguồn điện, trong đó có nhiệt điện, gặp nhiều khó khăn vì nhiều nguyên nhân. Với nhu cầu điện tăng cao, nguy cơ thiếu điện rất lớn.
Trong 15-20 năm nữa, nhiệt điện than vẫn giữ vai trò quan trọng vì chưa có nguồn điện nào đủ thay thế. Tuy nhiên, cần hiểu đúng, nói đúng về nhiệt điện than. Muốn vậy phải có thông tin khoa học chính xác để tránh hiểu lầm và suy diễn.
Chúng ta không thể lấy một vài sự cố của một vài nhà máy nhiệt điện than (đã được khắc phục) để quy kết cho tất cả các nhà máy nhiệt điện than – ông Trương Duy Nghĩa nhấn mạnh.
Ông Lê Văn Lực – Phó cục trưởng Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo, Bộ Công Thương, cho biết: Từ năm 2016 đến nay, ngành điện đã bảo đảm tốt công tác bảo vệ môi trường, không xảy ra sự cố nào về môi trường do các dự án điện gây nên. Tuy nhiên, thủy điện có giá điện thấp nhất cơ bản đã khai thác hết, nguồn điện khí có giá thành cao và nguồn khí mỏ trong nước đang dần cạn. Còn năng lượng tái tạo thì giá thành vẫn rất cao. Hiện nhiệt điện than là nguồn điện có giá thành hợp lý nhất và là giải pháp cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập người dân. Từ nay đến năm 2030 và những năm tiếp theo, nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn điện.
Chính vì vậy, một trong những việc cần làm là Chính phủ khuyến khích xã hội hóa ngành điện, để có thể thu hút thêm nhà đầu tư vào lĩnh vực nhiệt điện than, gánh vác một phần trong việc bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.
Theo ông Phạm Anh Dũng – Phó vụ trưởng Vụ Thẩm định đánh giá tác động môi trường, Tổng cục Môi trường (Bộ Tài nguyên và Môi trường) – nguồn thải từ nhiệt điện than gồm có khí thải lò hơi, nước thải công nghiệp, sinh hoạt và nước làm mát và chất thải rắn thông thường (bao gồm tro, xỉ), nguy hại. Hiện đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này và các nhà máy cơ bản đã làm rất tốt, đặc biệt là việc thực hiện quan trắc liên tục khí thải của nhà máy và truyền số liệu về các Sở Tài nguyên và Môi trường để giám sát, thực hiện quan trắc liên tục (Clo dư, pH, lưu lượng) tại cửa xả để giám sát chất lượng nước làm mát.
Đại diện Công ty Kepco (Hàn Quốc) chia sẻ, tại Hàn Quốc, nhiệt điện than vẫn giữ vai trò cơ bản trong việc cung cấp điện cho nền kinh tế, giá cả rất cạnh tranh. Nếu so sánh về dân số thì công suất đặt nhiệt điện than ở Hàn Quốc gấp 3 lần Việt Nam và so sánh diện tích thì công suất đặt gấp 10 lần Việt Nam. Các vấn đề môi trường được kiểm soát tốt do Hàn Quốc sử dụng công nghệ cao, đồng thời sử dụng nguồn tro, xỉ một cách triệt để.
Theo các chuyên gia, nhiệt điện than với công nghệ cao, hiện đại, thân thiện với môi trường vẫn mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống điện vì diện tích chiếm đất ít, sản lượng điện lớn, ổn định, giá thành sản xuất hợp lý hơn các nguồn điện khác (giá nhiệt điện than thấp chỉ sau thủy điện). Bên cạnh đó, vấn đề môi trường đã và đang được kiểm soát, giám sát chặt chẽ.
Hiện nhiệt điện than là nguồn điện có giá thành hợp lý nhất và là giải pháp cung cấp điện với chi phí hợp lý, phù hợp với kinh tế đất nước và thu nhập người dân. Từ nay đến năm 2030 và những năm tiếp theo, nhiệt điện than vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu nguồn điện.
Theo Petrotimes.vn (18/12/2018)